Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý
Chương II: Thực trạng về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
83 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời giới thiệu
Với sự phát triển mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nhân thọ cạnh tranh đã và đang tạo ra những tác động không nhỏ tới Bảo Việt theo cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực: Việc cạnh tranh với những đối thủ có bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ trên thị trường thế giới, có công nghệ kĩ thuật hiện đại, có phương pháp quản lý tiên tiến đã giúp cho Bảo Việt tự nhìn nhận, đánh giá lại mình để rút ra những điểm còn hạn chế, nhằm đề ra những giải pháp khắc phục. Bên cạnh đó đây còn là điều kiện tốt để Bảo Việt tiến hành xem xét, nghiên cứu và chắt lọc những điểm tiến bộ của đối thủ để áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường cũng đồng nghĩa với việc sức ép cạnh tranh đối với Bảo Việt ngày càng tăng cao và hệ quả tất yếu là sự chia sẽ về khách hàng và thị phần,là khó khăn trong tuyển dụng đại lý...Và mặc dù trong những năm qua với sự tăng trưởng và phát triển như vũ bảo của bảo hiểm Việt Nam, song so với các ngành khác thì Bảo Việt vẫn còn bộc lộ những hạn chế chứng tỏ sự non nớt của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu tại công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá. Tôi thấy rằng điểm hạn chế nhất đó chính là vấn đề quản lý công ty. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hoá” Với mục tiêu đóng góp một số ý kiến của mình, hy vọng làm một điều gì đó nhằm khắc phục những hạn chế mà công ty đang gặp phải để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trong môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt của thị trường tài chính Việt Nam
Chuyên đề này tôi chỉ xin trình bày trong một phạm vi nhất định.Cơ cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
+ Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý
+ Chương II: Thực trạng về năng lực hoạt động của bộ máy quản lý trong công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa hiện nay
+ Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp ở công ty bảo hiểm nhân thọ Thanh Hóa và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tâm của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Thị Thu Hà đã giúp tôi hoàn thiện đề tài này.
Phần nội dungchương I
Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và bộ máy quản lý của công ty
I . Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ
1 . Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ
Có thể hiểu một cách ngắn gọn, bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó:
Công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện định trước liên quan đến cuộc sống con người xảy ra như: người được bảo hiểm bị chết, người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định trước
Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm theo quy định cho công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ nói chung có nhiều loại: Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm suốt cuộc đời, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hiểm trợ cấp hưu trí v.v Ngoài ra còn có các điều khoản bổ sung cho các hợp đồng chính : bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm các bệnh hiểm nghèo
2. Những đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ:
Năm 1996 được sự uỷ quyền của thủ tướng chính phủ, Bộ tài chính ra quyết định thành lập lại tổng công ty bảo hiểm việt nam, được nhà nước xếp loại” doanh nghiệp nhà nước xếp hạng đặc biệt”. Sở dĩ được xếp hạng đặc biệt là vì bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng có những đặc điểm rất khác biệt so với các sản phẩm khác
Thứ nhất: Bảo hiểm nhân thọ là một loại hình dịch vụ tài chính, một sản phẩm vô hình, người mua bảo hiểm đóng tiền ( thường là đóng định kỳ) cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ nhận lại một lời cam kết sẽ được trả tiền khi những sự kiện bảo hiểm được xác định trước ( sống đến một thời điểm, chết ,thương tật) phát sinh mà không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay không cũng như không biết chắc sự kiện đó có xảy ra hay không cũng như không xác định được thời điểm phát sinh sự kiện đó( trừ trường hợp sống). Do vậy khác với các hàng hoá thông thường, người mua BHNT không thể dùng thử để để biết chất lượng sản phẩm mà chỉ có thể dùng thật, đã dùng thật là dùng trong thời hạn dài. Hơn thế nữa, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ còn là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, nên nhiều khi người mua bảo hiểm không thể hình dung hết được về sản phẩm bảo hiểm
Thứ hai: Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, đó là rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống sức khoẻ con người( có thể nói, BHNT gắn liền với chu kì” sinh, lão, bệnh, tử” của con người), do vậy BHNT không thể bù đắp lại được những tổn thất về sinh mạng, sức khỏe khả năng lao động và tinh thần cho người được bảo hiểm và người thân của họ mà chỉ bù đắp lại một phần nào những thiệt hại về mặt tài chính mà những tổn thất này gây ra. Chính vì vậy,với trường hợp phạm vi bảo hiểm chỉ là rủi ro, BHNT là một trong số ít sản phẩm mà người mua rồi không mong muốn được nhận quyền lợi bảo hiểm , thay vào đó là họ muốn tìm sự thanh thản , sự bảo vệ, cảm giác đầy trách nhiệm trước người thân. Cũng do có đối tượng kinh doanh rất đặc biệt, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng cần biết cảm thông, chia sẽ trước những rủi ro, mất mát của khách hàng. Đây chính là chủ nhân trong kinh doanh BHNT. Đồng thời với cơ chế bù đắp tài chính, khắc phục hậu quả của rủi ro, hỗ trợ tài chính khi không còn khả năng lao động( Đặc biệt là qua các sản phẩm hưu trí), chúng ta có thể thấy, BHNT còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Thứ ba: Nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ là nhu cầu thụ động, khách hàng rất ít khi chủ động tìm đến doanh nghiệp để mua bảo hiểm nhân thọ mà thường chỉ mua bảo hiểm sau khi được người bán bảo hiểm thuyết phục, vận động (thường là qua rất nhiều lần). Một điểm đáng chú ý nữa là, theo thống kê tại các thị trường BHNT lớn như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, người quyết định mua bảo hiểm nhân thọ phần lớn không dưới 75% là phụ nữ.
Thứ tư: Bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm dài hạn, thời hạn bảo hiểm là 5 năm, 10 năm, 20 năm, nhiều khi là cả đời người . Do vậy khi tham gia bảo hiểm nhân thọ khách hàng luôn đặt ra những câu hỏi liên quan đến tương lai ( tương lai xa, rất xa) như: liệu đến khi hợp đồng đáo hạn doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn tồn tại hay không( doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán tiền bảo hiểm đã cam kết hay không Thực tế triển khai BHNT của Bảo Việt cũng như của các công ty bảo hiểm nhân thọ khác hoạt động tại thị trường Việt Nam cho thấy, các sản phẩm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu. Vừa là một sản phẩm dài hạn lại vừa là sản phẩm hình thức nên càng làm cho bảo hiểm nhân thọ càng trở nên đặc biệt, do đó việc tạo lòng tin nơi khách hàng đóng vai trò tối quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm nhân thọ tại thị trường Việt Nam đã cho thấy uy tín doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định việc tham gia bảo hiểm nhân thọ của khách hàng
Thứ năm: Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là sản phẩm bán lẻ là chủ yếu, đại đa số khách hàng là cá nhân quyết định mua BHNT của họ rất ít chịu tác động, chi phối bởi yếu tố quyền lực hay các yếu tố khác, do vậy việc khách hàng tham gia tại doanh nghiệp nào phụ thuộc rất lớn vào khả năng chinh phục nhân tâm công chúng của doanh nghiệp đó.
Do những đặc điểm đó mà các doanh nghiệp phải cần xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và quảng cáo trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có những nét khác biệt so với các lĩnh vực khác
3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
BHNT có vai trò rất quan trọng đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đối với từng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Đối với từng cá nhân, gia đình:
Xét trên khía cạnh tinh thần, tham gia BHNT thể hiện sự quan tâm, lo lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái làm cho tình cảm gia đình thêm keo sơn, thắm thiết và hạnh phúc. Đồng thời, BHNT còn góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình bằng sự hỗ trợ về tài chính khi không may họ gặp phải rủi ro. Từ đó, BHNT là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân giúp họ yên tâm lao động sản xuất.
Mặt khác, BHNT còn góp phần rất lớn để từng gia đình thực hiện kế hoạch tài chính thông qua tiết kiệm, tạo quỹ giáo dục giành cho con cái, có tiền chi dùng khi về hưu...Từ cơ chế thu phí, các doanh nghiệp BHNT buộc họ phải thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch nhờ khoản phí bảo hiểm họ phải đóng định kỳ.
Đối với các cơ quan, doanh nghiệp:
Lợi ích đầu tiên đối với các doanh nghiệp là ở chỗ nó làm ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề tài chính. Nếu vì một lý do nào đó người chủ chốt trong các có quan, doanh nghiệp bị chết hay thương tật vĩnh viễn thì họ sẽ nhận được một số tiền để lo chi phí cho người bị thiệt mạng và một khoản để có thể tuyển dụng người khác thay thế tiếp tục công việc
Hai là khi người chủ sử dụng lao động tham gia BHNT cho người lao động của mình thì không những quyền lợi của người lao động tăng lên mà còn thể hiện được sự quan tâm, lo lắng của họ đối với người làm công. Từ đó làm giảm bớt khoảng cách, xoa dịu mâu thuẫn giữa chủ và thợ, kích thích người lao động gắn bó hơn với doanh nghiệp và làm việc hiệu quả hơn, mang về cho doanh nghiệp nhiều lợi hơn.
Đối với xã hội:
Một trong những vai trò của BHNT đối với xã hội chính là nâng cao phúc lợi cộng đồng. Khi tham gia BHNT tức là người dân đã tuân theo quy luật số đông - rủi ro của họ sẽ được san sẻ cho nhiều người. Mặt khác, cuộc sống của người dân khi về già gặp không ít khó khăn, với sự ra đời của BHNT đặc biệt là sản phẩm “niên kim nhân thọ” sẽ giảm bớt một phần nỗi lo âu về tài chính của họ, bớt đi gánh nặng trách nhiệm của con cái và xã hội.
Không thể không đề cập tới vai trò tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân chúng của BHNT. Mỗi cá nhân mua BHNT là một cách tự bảo vệ mình, đồng thời còn tạo ra một quỹ tiết kiệm cho mình. Đối với doanh nghiệp BHNT thì mỗi một quỹ tiết kiệm góp lại thành quỹ bảo hiểm tập trung - một quỹ đầu tư dài hạn, đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Cũng từ đó mà làm tăng nhu cầu tuyển dụng lao động của các ngành, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, tránh hiện tượng lãng phí nguồn nhân lực. Ngoài ra, bản thân sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp BHNT cũng đã giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người, chính là mạng lưới đại lý rộng khắp và ngày càng gia tăng không ngừng của các doanh nghiệp này.
4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ:
Hiện nay ở trên thế giới và Việt Nam đều tồn tại 3 loại hình bảo hiểm như sau:
+ Bảo hiểm trong trường hợp chết.
+ Bảo hiểm trong trường hợp sống.
+ BHNT hỗn hợp.
Đấy là ba loại hình bảo hiểm cơ bản tồn tại trên thị trường bảo hiểm hiện nay. Tuy nhiên trong quá trình tham gia bảo hiểm thì người mua bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung như: Bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm không nộp phí khi thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạ ... a. Bảo hiểm trong trường hợp chết:
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành hai nhóm: Bảo hiểm tử kỳ và Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
- Bảo hiểm tử kỳ.
Loại hình bảo hiểm này còn được gọi là bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: Nó tiến hành bảo hiểm cho cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào như: Tai nạn, bệnh tật .v.v...miễn là thời điểm xảy ra tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo hiểm vẫn còn hiệu lực.Nếu tai nạn xảy ra vào lúc hợp đồng còn hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm một khoản tiền đúng bằng số tiền bồi thường như trong hợp đồng đã cam kết. Nếu tai nạn xảy ra vào thời điểm hợp đồng đã hết hiệu lực thì nhà kinh doanh bảo hiể
-Bảo hiển nhân thọ trọn đời:
BHNT trọn đời, hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh. Hình thức bảo hiểm của loại hình này là: Cam kết trả một khoản tiền bồi thường đúng như trong hợp đồng quy định khi người tham gia bảo hiểm sống đến hết cuộc đời của mình. Vì thời điểm chết của người tham gia bảo hiểm là không xác định nên thời hạn hợp đồng là không xác định
Loại hình bảo hiểm này có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ STBH trả một lần khi người được bảo hiểm chết bất cứ lúc nào.
+ Phí bảo hiểm của loại này lớn hơn của Bảo hiểm tử kỳ.
+ Phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm.
BHNT trọn đời được triển khai nhằm thoả mãn nhiều mục đích khác nhau:
+ Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo hiểm.
+ Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau.
+ Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch đã định trước.
+ Tiết kiệm.
b. Bảo hiểm trong trường hợp sống:
Bảo hiểm trong trường hợp sống hay còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ, là loại hình bảo hiểm mà thực chất là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thí sẽ không được chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Bảo hiểm sinh kỳ có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm có thể xác định (gọi là niên kim nhân thọ tạm thời), có thể không xác định (gọi là niên kim nhân thọ trọn đời).
+ Phí bảo hiểm đóng một lần.
+ STBH được chi trả nhiều lần nên còn gọi là trợ cấp định kỳ
Loại bảo hiểm này nhằm thoả mãn những mục đích sau:
+ Đảm bảo cuộc sống khi về già hoặc về hưu.
+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi hết tuổi lao động.
+ Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội khi tuổi già.
c. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Đây là loại hình bảo hiểm được kết hợp giữa hai loại hình bảo hiểm trên( Bảo hiểm trong trường hợp chết và bảo hiểm trong trường hợp sống). Vì tính ưu điểm của nó là tiết kiệm và rủi ro nên nó được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới
BHNT hỗn hợp có một số đặc điểm chính sau:
+ Thời hạn bảo hiểm luôn xác định.
+ STBH được trả một lần khi có các SKBH xảy ra (người bảo hiểm chết hoặc khi hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn sống).
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
+ Có thể được chia lãi hoặc có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
+ Khách đông và có thể ở mọi lứa tuổi
Loại hình bảo hiểm này được triển khai nhằm nhiều mục đích khác nhau :
+ Đảm bảo cuộc sống cho gia đình và người thân
+ Thực hiện tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ gia đình cho con cái, mua sắm tài sản.
+ Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh.
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
5. Các lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm nhân thọ:
Hiện nay bảo hiểm nhân thọ hoạt động trên 4 lĩnh vực đó là:
-Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của một công ty bảo hiểm. Nguyên tắc kinh doanh là “ Lấy số nhiều bù số ít”. Lợi nhuận thu được của công ty là nhờ vào sự chênh lệch về doanh thu phí bảo hiểm và chi phí bồi thường cho khách hàng. Doanh thu sẽ thu được từ phí bảo hiểm do nhiều người tham gia bảo hiểm đóng góp
-Tái bảo hiểm nhân thọ:
Trên thực tế triển khai, tái bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển giao rủi ro. Khi một công ty bảo hiểm gốc nhận bảo hiểm cho một dịch vụ có giá trị bảo hiểm lớn, vượt mức bồi thường( mức giữ lại của mình), muốn đảm bảo khả năng thanh toán khi xảy ra rủi ro, tổn thất cho dịch vụ này cũng như để bảo toàn vốn và sự tồn tại của công ty, công ty bảo hiểm này cần kí một hợp đồng tái bảo hiểm để chuyển giao rủi ro từ công ty mình sang một công ty bảo hiểm / tái bảo hiểm khác có năng lực tài chính( khả năng thanh toán) lớn hơn. Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tái bảo hiểm là không còn xa lạ đối với nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
- Đầu tư tài chính:
Nghiệp vụ đầu tư tài chính của bảo hiểm đã phát triển từ lâu trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam thì nghiệp vụ này chưa được các công ty bảo hiểm áp dụng rộng rãi. Đây là nghiệp vụ hoạt động giống như nghiệp vụ của một ngân hàng. Công ty bảo hiểm sẽ đầu tư hoặc cho một cá nhân, một tổ chức nào đó vay. Lợi nhuận mà công ty thu được đó chính là lãi suất. Các công ty bảo hiểm nhân thọ có khả năng tài chính lớn thường phát triển về nghiệp vụ này
II . Lý luận về bộ máy quản lý và năng lực hoạt động của bộ máy quản lý
1. Bộ máy quản lý
a. Khái niệm về bộ máy quản lý:
Bộ máy quản lý là một cơ quan chức năng trong một tổ chức nó bao gồm hệ thống các phòng ban chức năng có nhiệm vụ cơ bản giúp giám đốc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất
Tổ chức là sự liên kết những phần tử, những quá trình , những hoạt động trong hệ thống nhằn thực hiện mục đích đề ra của hệ thống dựa trên các cơ sở các nguyên tắc và các quy tắc của quản trị quy định
Hệ thống là tập hợp các phần tử và những mối quan hệ giữa các phần tử nhằm tạo ra một đặc trưngđó là tính trồi của phần tử mà tính chất này không thể có đượ từ những phần tử đơn lẻ
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến hệ thống nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của họ nhằm đạt mục tiêu đề ra của tổ chức với hiệu quả cao nhấ
Điều hành là một trong các chức năng quản lý nhằm tác động lên hành vi của hệ thống hướng hệ thống vào thực hiện mục đích và mục tiêu quản lý theo đướng lối, chiến lược đã định. Điều hành là chức năng chủ yếu của hoạt động quản lý
b. Yêu cầu của bộ máy quản lý:
Mặc dù có rất nhiều hình thức tổ chức bộ máy quản lý để đáp ứng với từng điều kiện cụ thể của một tổ chức song nhìn chung để đảm bảo dược tính hiệu quả cao nhất thì bộ máy quản lý cần đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Một là: Phải đảm bảo thực hiện đầy đủ, toàn diện những chức năng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung đã đề ra: hoàn thành toàn diện kế hoach với chi phí ít và hiệu quả kinh tế nhiều nhất
Hai là: Phải đảm bảo nghiêm túc và tuyệt đối chế độ một thủ trưởng chế độ trách nhiệm cá nhân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của tập thể lao động trong doanh nghiệp
Ba là: Phải tạo được điều kiện để phát huy tối đa tính tự chủ và sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên thông qua việc giao quyền và phân quyền
Bốn là: Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với đặc điểm kinh tế và kĩ thuật của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có quy mô lớn, công tác của các phòng chức năng được chuyên môn hoá sâu hơn do đó cần thiết và có thiể tổ chức nhiều phòng chức năng hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật như loại hình sản xuất, tính chất sản phẩm, tính chất công nghệ, vị trí doanh nghiệp trong phân công lao động xã hội đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ máy quan lý của doanh nghiệp
Năm là: Bộ máy quản lý phải được tinh giảm một cách có hiệu quả; nghĩa là khi tinh giảm bộ vẫn đảm bảo được tính vững trắc trong việc liên kết các phần tử, sự hoạt động vững trắc của tổ chức... mà không ảnh hưởng xấu đến vai trò cũng như năng lực hoạt động của bộ máy
c. Vai trò và chức năng của bộ máy quản lý:
Vai trò:
Bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nó quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. Với một bộ máy quản lý gọn nhẹ, có trình độ có phương pháp quản lý phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp có hướng đi đúng, có sự tổ chức kinh doanh hợp lý, cũng như có sự chỉ đạo , kiểm tra và điều chỉnh nhanh chóng và chính xác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ đó mà doanh nghiệp phát huy được những điểm mạnh, khắc phục được những điểm yếu của mình thích ứng nhanh chóng với điều kiện kinh tế thị trường đầy biến động và ngày càng phát triển hơn.
Chức năng:
Bộ máy quản lý là cơ quan đầu não của một doanh nghiệp. Như vậy bộ máy quản lý phải thực hiện chức năng như một đầu tầu để kéo đ