Ngành thông tin - Thư viện với sự nghiệp nghiên cứu và đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam hiện nay

Khoa học Thông tin - Thư viện là một ngành khoa học xã hội độc lập. Song tri thức nhân loại là một hệ thống thống nhất, khoa học Thông tin - Thư viện (TT – TV) không tồn tại một cách đơn lẻ, hơn nữa nó còn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các ngành khoa học Xã hội & Nhân văn (KHXH & NV). Vì vậy, khoa học TT – TV ngoài những đặc trưng, vai trò quan trọng vốn có như bao ngành khoa học Xã hội & Nhân văn khác, bản thân khoa học xã hội này còn có những điểm đặc thù và chức năng, nhiệm vụ riêng biệt của mình. Bản chất của các cơ quan thông tin, thư viện và sự nghiệp thông tin - thư viện là một hiện tượng xã hội, được hình thành do nhu cầu trao đổi thông tin từ thực tiễn đời sống của con người. Đồng thời nó chịu sự phát triển và biến đổi dưới tác động chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Chính vì thế, khoa học TT - TV luôn không ngừng “hoàn thiện”và phát triển để thực hiện tốt các chức năng của mình về văn hoá, giáo dục, thông tin và giải trí nhằm hoàn thành nhiệm vụ quan trọng phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển sự nghiệp văn hoá; giáo dục & đào tạo; khoa học & công nghệ và các lĩnh vực kinh tế, sản xuất, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước.

doc14 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 742 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngành thông tin - Thư viện với sự nghiệp nghiên cứu và đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÀNH THÔNG TIN - THƯ VIỆN VỚI SỰ NGHIỆP NGHIÊN CỨU & ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PGS.TS. T RẦN THỊ QUÝ Chủ nhiệm Khoa Thông tin & Thư viện Trường Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa học Thông tin - Thư viện là một ngành khoa học xã hội độc lập. Song tri thức nhân loại là một hệ thống thống nhất, khoa học Thông tin - Thư viện (TT – TV) không tồn tại một cách đơn lẻ, hơn nữa nó còn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các ngành khoa học Xã hội & Nhân văn (KHXH & NV). Vì vậy, khoa học TT – TV ngoài những đặc trưng, vai trò quan trọng vốn có như bao ngành khoa học Xã hội & Nhân văn khác, bản thân khoa học xã hội này còn có những điểm đặc thù và chức năng, nhiệm vụ riêng biệt của mình. Bản chất của các cơ quan thông tin, thư viện và sự nghiệp thông tin - thư viện là một hiện tượng xã hội, được hình thành do nhu cầu trao đổi thông tin từ thực tiễn đời sống của con người. Đồng thời nó chịu sự phát triển và biến đổi dưới tác động chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Chính vì thế, khoa học TT - TV luôn không ngừng “hoàn thiện”và phát triển để thực hiện tốt các chức năng của mình về văn hoá, giáo dục, thông tin và giải trí nhằm hoàn thành nhiệm vụ quan trọng phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển sự nghiệp văn hoá; giáo dục & đào tạo; khoa học & công nghệ và các lĩnh vực kinh tế, sản xuất, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành Thông tin - Thư viện đã và đang không ngừng nỗ lực vượt qua mọi thách thức, nhanh chóng nắm bắt thời cơ để phát triển nhằm đảm bảo thông tin đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời và chính xác cho mọi đối tượng người dùng tin phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và sự nghiệp đào tạo & nghiên cứu các ngành KHXH & NV nói riêng. Góp phần tích cực đảm bảo cung cấp thông tin/tài liệu có chất lượng, đầy đủ, kịp thời để các ngành KH XH & NV thực hiện trọng trách hết sức quan trọng là nghiên cứu “Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi mới đất nước. Xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Thách thức từ bên ngoài đối với ngành TT – TV trước hết là sự tác động mạnh mẽ của cuộc các mạng công nghệ thông tin và viễn thông hiện đại đã làm hoạt động nghiệp vụ của ngành biến đổi về chất. Sự xuất hiện hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới đã tác động trực tiếp và làm thay đổi tâm lý, thói quan, nhu cầu sử dụng tài liệu, khai thác thông tin phục vụ nghiên cứu, học tập và đào tạo của người dùng tin nói chung và những người dùng tin trong lĩnh vực KHXH & NV nói riêng. Sư xuất hiện sản phẩm giấy điện tử, sách điện tử ra đời và công nghệ thông tin hiện đại đường truyền kỹ thuật số với phương thức in ấn, xuất bản mới, dịch vụ nhà sách trực tuyến đã làm biến đổi kỹ thuật xuất bản, lưu giữ, truyền tải phục vụ tài liệu cho người dùng tin theo nhu cầu từ File dữ liệu trên máy in, máy phôtô copy, máy Fax thông... Dịch vụ này cho phép xuất bản thuận lợi, nhân bản nhanh chóng, truyền tải phục vụ thông tin cập nhật, thuận lợi, giá thành giảm... nhưng vấn đề bảo mật thông tin, luật bản quyền đang đặt ra là một vấn đề thách thức. Dịch vụ cung cấp thông tin/tài liệu với hình thức nhà sách tự chọn trực tuyến tới kho sách ảo và đưa sách tài liệu đến tận nhà tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng tin. Họ không cần đến các trung tâm thông tin, thư viện hay hiệu sách ở xa. Dịch vụ này đã làm giảm lượng người dùng tin đến các trung tâm thông tin, thư viện đáng kể, đặc biệt là hệ thống các thư viện công cộng. Dịch vụ truyền hình kỹ thuật số không dây, đa phương tiện phát triển mạnh giúp người dùng tin có thể trao đổi, truy cập thông tin, dữ liệu nhanh chóng ở bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào và bằng ngôn ngữ nào. Dịch vụ này dẫn tới việc đảm bảo phổ biến thông tin/tài liệu (đặc biệt là tài liệu về các lĩnh vực KHXH & NV) có chủ đích của các cơ quan thông tin gặp khó khăn hơn. Dịch vụ đào tạo từ xa xuất hiện với phương pháp đào tạo mới lấy người học làm trung tâm. Người học cần tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Vì vậy, các cơ quan thông tin, thư viện chuyên ngành (cơ quan TT, TV của các trường đại học/học viện/viện nghiên cứu) cần phải có nguồn tin trực tuyến, đa phương tiện đầy đủ, với hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại. Đồng thời đòi hỏi các chuyên gia thông tin - thư viện trong môi trường mới cần phải có trình độ cao về nghiệp vụ kỹ thuật mới và cần có trình độ/kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực khoa học khác nhau để tạo dựng các sản phẩm và dịch vụ thông tin tinh sảo có chất lượng cao tương thích với sự phát triển của các dịch vụ trực tuyến, truyền thông di động hiện đại là những thách thức không nhỏ với ngành TT – TV trong việc lựa chọn, thu thập tài liệu để phát triển nguồn tin; trong việc nắm bắt các chuẩn kỹ thuật/công nghệ mới, trong việc xử lý, lưu giữ, bảo quản thông tin và trong việc tạo dựng các sản phẩm, dịch vụ thông tin hiện đại để phổ biến, phục vụ người dùng tin trong học tập và nghiên cứu. Thu hút mọi đối tượng người dùng tin đến với các cơ quan TT & TV đặc biệt đối với các trung tâm TT – TV chuyên ngành KHXH & NV. Thách thức từ bên trong đối với ngành TT – TV là sự nhận thức của một số lãnh đạo các cấp còn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của ngành TT – TV trong xã hội nói chung và trong nghiên cứu & đào tạo các ngành KH XH&NV nói riêng. Đặc biệt là trong việc đánh giá vai trò quan trọng của thông tin KHXH & NV trong xã hội thông tin với nền kinh tế tri thức hiện nay. Chính vì vậy, việc đầu tư ngân sách còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tin học hóa, tự động hoá các cơ quan TT, TV chuyên ngành phục vụ đào tạo, nghiên cứu các ngành KHXH & NV trong việc xây dựng và phát triển nguồn tin điện tử; đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại và phần mềm tích hợp; đào tạo nguồn nhân lực đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp trong môi trường điện tử. Các chế độ, chính sách cho cán bộ viên chức còn nhiều bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý, sức khoẻ, đời sống và ý chí phấn đấu tự giác nâng cao trình độ đáp ứng tốt nhất yêu cầu nghiệp vụ của ngành trong quá trình hiện đại hoá. Vì vậy, nghiệp vụ của ngành còn chưa được chuẩn hoá, chưa theo kịp với tốc độ phát triển, biến đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin hiện đại, ảnh hưởng đến hiệu quả hội nhập chia sẻ thông tin trong và ngoài nước phục vụ cho nghiên cứu và đào tạo. Nguồn nhân lực trong các cơ sở đào tạo và các cơ quan TT, TV còn rất thiếu về số lượng và chưa đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận và kỹ năng tác nghiệp trong môi trường thư viện hiện đại. Sự đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực còn chậm. Sự phối hợp chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các cơ quan TT, TV phục vụ nghiên cứu và đào tạo các lĩnh vực KH XH & NV nói riêng chưa được triển khai. Hoạt động nghiên cứu khoa học để hoàn thiện hệ thống lý thuyết và áp dụng triển khai thực tiễn hoạt động nghiệp vụ của ngành chưa được coi trọng. Tâm lý không chịu đổi mới của cán bộ viên chức trong các cơ quan TT, TV và ý thức tự giác trong việc tôn trọng bản quyền tác giả của người dùng tin khi dụng nguồn tư liệu cũng chưa cao, chưa được khắc phục... Bên cạnh việc tích cực khắc phục những thách thức như đã phân tích ở trên ngành TT – TV đã và đang nhanh chóng chớp lấy cơ hội, vận hội mới để phát triển theo hướng hiện đại nhằm tổ chức phục vụ đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin/tài liệu phục vụ nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV trong giai đoạn đổi mới của đất nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Trước hết, cơ hội, vận hội mới đang đem lại cho ngành TT – TV là sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức do sự tác động mạnh mẽ, sâu rộng của cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại và nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thế giới. Trong nền kinh tế này, tri thức/thông tin đã và đang trở hành các nguồn tài nguyên trực tiếp, nguồn lực quan trọng hàng đầu mang tính chiến lược. Vì vậy, các vấn đề như phát triển, lựa chọn thu thập thông tin, xử lý, lưu trữ, phổ biến, khai thác và quản trị thông tin/tri thức khoa học dưới mọi hình thức dựa trên hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại là nội dung trọng tâm của nền kinh tế thế giới nói chng và Việt Nam nói riêng. Chính môi trường kinh tế - xã hội mới này là cơ hội lớn cho hoạt động TT - TV biến đổi, nâng cao vị thế trong xã hội. Cơ hội thứ hai là sự phát triển nhảy vọt, đạt trình độ cao chưa từng có của công nghệ thông tin và viễn thông đã phá tan bức tường rào về không gian và thời gian, khiến biên giới trên phương diện địa chính trị giữa các quốc gia trên toàn cầu không còn ý nghĩa. Nhu cầu đề các quốc gia, cơ quan nghiên cứu và đơn vị đào tạo các lĩnh vực KHXH & NV,... có cơ hội trao đổi, chia sẻ thông tin/tri thức, tìm kiếm đối tác một cách nhanh chóng thông qua xu hướng phát triển liên kết mạng Internet hiện đại/mạng thông tin điện tử đã và đang tác động mạnh đến hình thức tổ chức, quản lý hoạt động và nghiệp vụ của ngành TT – TV truyền thống. Đây chính là cơ hội quan trọng để ngành TT – TV hội nhập và phát triển. Cơ hội thứ ba là trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới, hàng loạt các Chỉ thị, Nghị quyết... của Đảng và Nhà nước ra đời đã và đang tạo hành lang pháp lý quan trọng và là cơ sở vững trắc để ngành TT – TV nhanh chóng phát triển. Như Nghị quyết Hội nghị (NQHN) của Ban chấp hành Trung ương (BCH TƯ) Đảng lần thứ 2, khoá VIII về “Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”. Nghị quyết HN BCH TƯ Đảng lần thứ 5 khoá VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc biệt Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị đã nêu: “Tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực....và các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chữa bệnh từ xa, thư viện điện tử)...”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: “...đề từng bước tiếp cận nền kinh tế trí thức,... chú trọng phát triển và đào tạo cán bộ cho các ngành công nghệ cao, mũi nhọn, các lĩnh vực điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, quản trị thông tin...”; Trong kết luận HN BCH TƯ lần thứ 6 khoá IX đã nêu rõ một trong những phương hướng, nhiệm vụ phát triển KH & CN đến năm 2010 là: tổ chức hệ thống thông tin KH&CN quốc gia, các thư viện điện tử theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ...”. Tháng 6/2000, Luật KH & CN ra đời đặt nền tảng pháp lý quan trọng để phát triển hoạt động thông tin KH&CN. Ngày 31/08/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 159/2004/NĐ-CP về hoạt động thông tin KH & CN nhằm cụ thể hoá Luật KH&CN. Năm 2001, Pháp lệnh Thư viện đã được ban hành, nhằm đẩy mạnh việc xây dựng, bảo tồn, khai thác và sử dụng vốn tài liệu, tăng cường công tác thư viện. Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư đối với thư viện để đảm bảo cho các thư viện hoạt động, phát triển và hiện đại hoá. Trong kế hoạch phát triển Internet của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2005 đã nêu rõ: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành... từng bước điện tử hoá các thư viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo, hình thành các kho điện tử công cộng và quốc gia. Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 115/2005/NĐ - CP ngày 5/9/2005 Quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập... Như vậy, đường lối và kế hoạch của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2010 và năm 2020 đã và đang tạo cơ hội mới cho ngành TT – TV nói chung và các cơ quan TT - TV phục vụ nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV nói riêng phát triển theo hướng hiện đại để hội nhập. Với những cơ hội mới đó, trong hơn hai thập kỷ của giai đoạn đổi mới đất nước, sự nghiệp TT – TV Việt Nam đã “chuyển mình”và có những đóng góp đáng khích lệ cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu các ngành KH XH & NV. Mạng lưới các cơ quan TT, TV khoa học chuyên ngành thuộc các trường đại học/học viện/viện nghiên cứu & đào tạo các ngành KHXH & NV đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, hiện nay hầu hết các trường/học viện/viện nghiên cứu và đào tạo các ngành KHXH & NV đều có các trung tâm thông tin khoa học hoặc thư viện. Các trung tâm TT, TV này có cơ cấu tổ chức khác nhau: có đơn vị được tổ chức độc lập có con dấu và tài khoản riêng, có đơn vị trực thuộc ban lãnh đạo cao nhất (Ban giám hiệu/viện trưởng), có đơn vị vẫn còn phải ghép với một phòng ban nào đó. Hiện cả nước có 167 trường đại học/học viện dân sự (trong đó có 73 trường đại học, 22 học viện, 18 trường địa phương, 50 trường đại học dân lập và tư thục, 4 trường dự bị đại học), 21 trường/học viện đại học Quân sự; 5 trường/học viện Công an có cơ cấu tổ chức khác nhau với nhiều mô hình đại học khác nhau như: Các đại học quốc gia; Các đại học và trường đại học cấp vùng... Trong số đó có khoảng 1/3 các trường/học viện/viện đào tạo các ngành/chuyên ngành KH XH&NV (trong đó có các trường/học viện/viện chuyên đào tạo và nghiên cứu các ngành KHXH & NV và một số trường bán chuyên hay nói cách khác là chỉ đào tạo một số ngành/chuyên ngành KHXH & NV). Các trường đại học/học viện lớn và có truyền thống lâu năm chuyên đào tạo các ngành/chuyên ngành KHXH&NV là các trường trong Đại học Quốc gia Hà Nội (Trường ĐH KHXH&NV, trường Đại học kinh tế; Khoa Luật; và một số viện/trung tâm nghiên cứu); các trường trong ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh (Trường ĐH KHXH&NV, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Trường Đại học Quốc tế); Các học viện/viện trong Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (Học viện Báo chí & tuyên truyền, Viện Viện Chính trị học, Triết học, Kinh tế, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Xã hội học, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng; Viện Nghiên cứu quyền con người, Viện Quan hệ Quốc tế, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Lịch sử Đảng, Viện Văn hóa và phát triển, Học Viện Xây dựng Đảng); Các viện/học viện trong Viện KHXH Việt Nam (gồm 30 viện: Viện Triết học, Kinh tế, Xã hội học, Đông Nam á; Kinh tế thế giới, Viện Lịch sử, Viện Văn học, Viện Hán nôm, Viện Thông tin KHXH, Viện Dân tộc học, Viện Luật Nhà nươc & Pháp luật, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Viện Gia đình và giới, Viện Viện Châu âu, Viện Nghiên cứu Đông Nam á, Viện kinh tế Việt Nam, Viện Tôn giáo... ); Học viện Chính trị Quân sự; Học viện An ninh Nhân dân, Trường Đại học An ninh Nhân dân; Đại học Văn hoá Hà Nội; ... Một số trường chỉ đào tạo một số ngành/chuyên ngành về KHXH & NV như các trường Đại học Sư phạm Hà nội; Trường Đại học Vinh; Các trường trong các đại học vùng như: Đại học Thái Nguyên (Trường Đại học Khoa học, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Sư phạm); Đại học Huế ( Khoa Luật, Khoa Du lịch, Trường Đại học Khoa học, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm); Đại học Đà Nẵng (Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Sư phạm); Trường Đại học Quy Nhơn; Trường Đại học Tây Nguyên; Trường Đại học Cần Thơ... Về chất lượng, hầu hết các trung tâm TT, TV chuyên ngành KH XH&NVđều đã được tin học hoá, hiện đại hoá trong việc tổ chức quản lý hoạt động, xây dựng vốn tài liệu điện tử, tổ chức lưu giữ, bảo quản và phục vụ theo hướng hiện đại phục vụ nghiên cứu và đào tạo (đặc biệt là các trung tâm TT, TV đào tạo các ngành KH XH&NV nằm trong các ĐHQG hoặc đại học vùng). Đến nay vốn tài liệu KH XH&NV đã được tin học hoá xây dựng thành các bộ sưu tập cơ sở dữ liệu dưới dạng thư mục và toàn văn khá lớn. Chỉ tính riêng vốn tài liệu do Thư viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Thông tin Khoa học Xã hội quản lý là một trong những thư viện có vốn tư liệu phong phú, quí hiếm về Đông phương học lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Hiện tại, Viện có vốn tư liệu về các lĩnh vực KHXH & NV rất lớn gồm: Bộ sưu tập đã được tin học hoá, xây dựng cơ sở dữ liệu lưu trên CD-ROM: CSDL tạp chí nước ngoài toàn văn của Wilson trên đĩa CD-ROM (tiếng Anh); CSDL Country Forecast của Dialog trên đĩa CD-ROM; Bộ Văn uyên Tứ Khố Toàn Thư gồm 150 đĩa CD-ROM (tiếng Trung Quốc). Đặc biệt vốn tài liệu in rất lớn như: Gần 400.000 tên sách tiếng Việt và tiếng nước ngoài; Gần 1000 tên báo và tạp chí (tiếng Việt và tiếng nước ngoài); Bộ sưu tập của Trường Viễn Đông Bác Cổ: 33.460 tên sách Trung quốc (cổ), 36.747 tên sách tiếng Pháp, tiếng Anh, 10.466 tên sách tiếng Nhật (cổ),... Hàng nghìn tập bản thảo viết tay như Hương ước, Thần tích Thần sắc bằng các loại chữ quốc ngữ, chữ Hán hoặc chữ Nôm; Gần 40.000 ảnh về các di tích lịch sử, sinh hoạt văn hoá, kiến trúc, khảo cổ.... của Việt Nam, Lào và Campuchia ... Hơn 5500 phim tấm, phim kính. Gần 2500 tấm bản đồ các loại. Hoặc chỉ tính riêng vốn tài liệu của Trường ĐHKHXH & NV Tp.HCM đã có tới 1.274 CD, VCD, DVD; 5 CSDL thư mục do thư viện tạo lập: CSDL sách với 50617 nhan đề phản ánh 116285 bản sách, CSDL báo – tạp chí với hơn 584 biểu ghi, CSDL luận văn với 1940 nhan đề phản ánh 2981 luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ; CSDL trích báo – tạp chí: 12.635 biểu ghi bài trích trong đó có 9.203 bài trích được tóm tắt và 3.432 bài trích chưa được tóm tắt. Kho báo – tạp chí bao gồm: 72 tên báo và phụ san; 01 CSDL toàn văn do thư viện tạo lập: CSDL tài liệu số hoá; 03 CSDL toàn văn (từ nguồn mua): CSDL Báo cáo khoa học, CSDL thư viện điện tử, CSDL tạp chí tiếng Anh; 14 băng casset, 11 băng video; CSDL giáo trình: 575 nhan đề phản ánh 15054 bản giáo trình; CSDL CD-ROM, VCD, DVD: 838 nhan đề phản ánh 1698 bản. Ngoài ra Thư viện còn một lượng lớn tài liệu về KHXH&NV dưới dạng truyền thống. Về đội ngũ cán bộ chuyên trách của các cơ quan thông tin, thư viện của các trường/học viện/viện nghiên cứu đều được tăng cường về số lượng và chú trọng về chất lượng. Tính bình quân số lượng cán bộ thư viện đại học/học viện/viện nghiên cứu trên toàn quốc khoảng 15 cán bộ/thư viện. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài về đội ngũ cán bộ thư viện trong các trường đại học ở khu vực Hà Nội của khoa Thông tin – Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đã có nhận xét về ưu điểm: Đội ngũ cán bộ tuổi đời còn rất trẻ; Hầu hết tốt nghiệp đúng ngành, có lòng yêu nghề, ham học hỏi; Đáp ứng tương đối tốt yêu cầu công việc; Môi trường làm việc tương đối tốt. Cơ sở hạ tầng đã được khởi sắc, được tăng cường đầu tư kinh phí và đổi mới làm hiệu quả hoạt động của các thư viện được nâng cao rõ rệt. Nhiều thư viện của các trường đại học đào tạo các ngành KH XH&NV đã và đang được hưởng dự án Giáo dục đại học, Dự án....... nên hạ tầng công nghệ thông tin và phần mềm quản trị thư viện đã và đang được đầu tư khá hiện đại như Trung tâm TT –TV của Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG Tp.HCM; Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Viện Thông tin khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Trung tâm học liệu của Đại học Cần thơ, Đại học Đà nẵng, Đại học Huế... Công tác phục vụ người dùng tin là cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên nghiên cứu & đào tạo trong lĩnh vực KHXH&NV đã được chú trọng. Nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin mới đã ra đời như sản phẩm thông tin Thư mục hay toàn văn theo chuyên đề; dịch vụ phục vụ thông tin có chọn lọc, dịch vụ tra cứu đa phương tiện, dịch vụ tra cứu trực tuyến, dịch vụ mượn về hay đọc tại chỗ, dịch vụ tra cứu truyền thống, sao chụp... Tất cả những thành tựu trên của hoạt động thông tin thư viện đã và đang góp phần quan trọng, đáng kể trong sự nghiệp nghiên cứu và đạo tạo các ngành KHXH&NV ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ của hệ thống