Đặt vấn đề: Phẫu thuật về mạch máu cuống thận đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực ghép thận. Tuy
nhiên, việc mô tả các dạng động mạch cung cấp máu cho thận ở người Việt Nam vẫn chưa được khảo sát đầy đủ,
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hy vọng cung cấp cho các nhà phẫu thuật có thêm những thông tin
về các dạng động mạch thận trong cuống thận ở người Việt Nam.
Mục tiêu: Mô tả các dạng động mạch thận trong cuống thận ở người Việt Nam trưởng thành nhằm ứng
dụng trong các phẫu thuật mạch máu thận đoạn ngoài thận.
Phương pháp: Mô tả nghiên cứu cắt ngang với 78 xác ướp formol người Việt Nam trưởng thành tại bộ
môn Giải phẫu học trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2010.
Kết quả: Có 156 quả thận với tất cả 199 ĐM thận cung cấp máu cho thận (184 ĐM rốn thận, 15 ĐM cực
trên và cực dưới xuất phát từ ĐM chủ). Trong đó tỉ lệ các ĐM thận cung cấp máu cho thận như sau: có 118 quả
thận được cung cấp máu bởi một ĐM thận (75,64%), 34 quả thận với 2 ĐM thận (21,79%), 3 quả thận có 3
ĐM thận (1,92%) và 1 quả thận được cung cấp 4 ĐM thận (0,64%). Tỉ lệ xuất hiện ĐM cực trên khá cao
(38,46%), ĐM cực dưới lại thấp (5,77%). Trong mẫu khảo sát này có đầy đủ các dạng ĐM thận mà các tác giả
trong nước và nước ngoài đã từng công bố.
Kết luận: Sự hiện diện đa ĐM thận trong việc cung cấp máu cho thận rất phổ biến. Sự thay đổi số lượng
ĐM thận tại rốn thận, ĐM cực trên và cực dưới đã làm phong phú thêm tính đa dạng của ĐM trong cuống
thận, và điều này sẽ làm phức tạp hơn cho những nhà niệu khoa trong việc cấy ghép thận như Spanos (1973),
Benedetti (1995) và Troppmann (2001) đã từng công bố trước đây.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các dạng động mạch thận trong cuống thận người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 164
NGHIÊN CỨU CÁC DẠNG ĐỘNG MẠCH THẬN
TRONG CUỐNG THẬN NGƯỜI VIỆT NAM
Võ Văn Hải*; Nguyễn Gia Ninh*, Nguyễn Văn Nhựt*, Vũ Lê Chuyên**, Dương Văn Hải*
*TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật về mạch máu cuống thận đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực ghép thận. Tuy
nhiên, việc mô tả các dạng động mạch cung cấp máu cho thận ở người Việt Nam vẫn chưa được khảo sát đầy đủ,
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hy vọng cung cấp cho các nhà phẫu thuật có thêm những thông tin
về các dạng động mạch thận trong cuống thận ở người Việt Nam.
Mục tiêu: Mô tả các dạng động mạch thận trong cuống thận ở người Việt Nam trưởng thành nhằm ứng
dụng trong các phẫu thuật mạch máu thận đoạn ngoài thận.
Phương pháp: Mô tả nghiên cứu cắt ngang với 78 xác ướp formol người Việt Nam trưởng thành tại bộ
môn Giải phẫu học trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được phẫu tích từ năm 2003 đến năm 2010.
Kết quả: Có 156 quả thận với tất cả 199 ĐM thận cung cấp máu cho thận (184 ĐM rốn thận, 15 ĐM cực
trên và cực dưới xuất phát từ ĐM chủ). Trong đó tỉ lệ các ĐM thận cung cấp máu cho thận như sau: có 118 quả
thận được cung cấp máu bởi một ĐM thận (75,64%), 34 quả thận với 2 ĐM thận (21,79%), 3 quả thận có 3
ĐM thận (1,92%) và 1 quả thận được cung cấp 4 ĐM thận (0,64%). Tỉ lệ xuất hiện ĐM cực trên khá cao
(38,46%), ĐM cực dưới lại thấp (5,77%). Trong mẫu khảo sát này có đầy đủ các dạng ĐM thận mà các tác giả
trong nước và nước ngoài đã từng công bố.
Kết luận: Sự hiện diện đa ĐM thận trong việc cung cấp máu cho thận rất phổ biến. Sự thay đổi số lượng
ĐM thận tại rốn thận, ĐM cực trên và cực dưới đã làm phong phú thêm tính đa dạng của ĐM trong cuống
thận, và điều này sẽ làm phức tạp hơn cho những nhà niệu khoa trong việc cấy ghép thận như Spanos (1973),
Benedetti (1995) và Troppmann (2001) đã từng công bố trước đây.
Từ khóa: động mạch thận, động mạch rốn thận, động mạch thận cực trên, động mạch thận cực dưới,
cuống thận.
ABSTRACT
STUDY CATEGORIES OF RENAL ARTERIES IN PEDICLES OF THE VIETNAMESE KIDNEYS
Vo Van Hai*; Nguyen Gia Ninh*, Nguyen Van Nhut*, Vu Le Chuyen**, Duong Van Hai*
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 164 - 169
Background: The surgery of pedicle of kidney plays an important role in kidney transplant procedure, but
the description of anatomical categories of the Vietnamese renal arterial supply is still little. Therefore, we carried
out the study to provide the surgeons with more information about various types of renal arteries in pedicle of the
Vietnamese kidney.
Aim: Describe anatomical categories of renal arteries in pedicle of the Vietnamese kidney to apply for renal
surgery.
Material and Method: We conducted a cross sectional descriptive study in 78 cadavers of Vietnamese
adults in the Anatomy Department Laboratory of the University of Medicine and Pharmaceutical of HCMC from
∗ Bộ môn Giải phẫu học, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
** Bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Võ Văn Hải ĐT: 0903323420 Email: bswhai@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 165
2003 to 2010.
Result: There are 156 kidneys with 199 renal arteries (184 hilar arteries, 15 upper and lower polar arteries
coming from the arotic artery). The anatomical findings included: a single hilar artery in 118 kidneys (75.64% in
of cases)), double renal arteries in 34 kidneys (21.79% in of cases), triple renal arteries in three kidneys ( 1.92% in
of cases) and tetrad renal arteries in one kidney (0.64% in cases). The appearance rate of upper polar arteries is
quite high (38.64%), whereas the appearance rate of lower polar arteries is low (5.77%). All forms of renal
arteries present as other authors had stated.
Conclusion: The existence of multiple renal arterial supply is quite common. Anatomy variations in renal
arteries, upper polar artery and lower polar artery have shown multiform renal artery in pedicle of kidney. And
the presence of multiple renal arteries.. increases the complexity of the transplant procedure as in the studies of
Spanos (1973), Benedetti (1995) and Troppmann (2001).
Key word: renal artery, hilar artery, upper polar artery, lower polar artery, pedical of kidney
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý ngoại khoa về thận (sỏi bể thận,
chấn thương thận, ung thư thận) ở nước ta rất
thường gặp và có nhiều bệnh nhân cần can thiệp
điều trị bằng phẫu thuật với ít nhiều tai biến,
biến chứng trong và sau mổ vì gặp phải những
thay đổi đa dạng của hệ thống mạch máu này.
Những tiến bộ và cải tiến thời gian gần đây
trong phẫu thuật niệu khoa cũng như các
phương pháp can thiệp X-quang hiện đại đã làm
sống lại một cách thú vị trong giải phẫu động
mạch thận và sự hiểu thấu đáo về mặt giải phẫu
các dạng ĐM thận là điều cốt lõi cho sự an toàn
và hiệu quả của các phương pháp phẫu thuật
điều trị. Trong đó ghép thận là phương pháp
điều trị an toàn và khá vĩnh cửu cho bệnh nhân
suy thận mạn (Lopes, 1998(13)); tuy nhiên sự hiện
diện đa động mạch thận làm gia tăng sự phức
tạp thêm của việc ghép thận (Spanos, 1973(22);
Benedetti, 1995(6); Troppmann, 2001(21)). Từ đó,
cùng với xu hướng phát triển nhanh của phẫu
thuật ghép thận trong những thập niên 1970 đến
nay(9, 12, 15) và nền nền Y học Việt nam cũng đã có
thành tựu đáng kể trong lĩnh vực ghép thận này.
Tuy nhiên việc mô tả các dạng động mạch trong
cuống thận cũng như các dạng động mạch thận
cung cấp máu cho thận vẫn còn nghiên cứu khá
ít, nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
hy vọng đưa ra kết quả nhằm cung cấp cho các
nhà phẫu thuật có thêm những thông tin để
tham khảo, đồng thời bổ sung cho ngành hình
thái học và sách giáo khoa về số liệu sinh học
của thận ở người Việt nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mô tả các dạng động mạch thận trong cuống
thận ở người Việt nam trưởng thành nhằm ứng
dụng trong các phẫu thuật mạch máu thận đoạn
ngoài thận.
Mục tiêu chuyên biệt
Phân loại và nêu ra tần suất các dạng hiện
diện của động mạch thận cung cấp máu cho
thận.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang
Mẫu
Lấy mẫu theo cách thuận tiện và ngẫu nhiên
78 xác ướp formole người việt nam trưởng
thành tại bộ môn giải phẫu học trường Đại học
Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2003
đến năm 2010. Tiêu chuẩn loại trừ: những xác có
sẹo mổ vùng bụng thắt lưng có can thiệp trực
tiếp trên mạch máu thận làm thay đổi cấu trúc
giải phẫu học ban đầu (điều này thường chỉ thấy
được khi phẫu tích vào vùng bụng và hố thận).
Phẫu tích và ghi nhận kết quả
- Đường mổ: chọn đường trắng giữa trên và
dưới rốn, bờ dưới cung sườn hai bên và đường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 166
ngang rốn hai bên đến đường nách giữa qua các
lớp của thành bụng.
- Cắt và bóc tách mạc nối lớn, bộc lộ dạ dày –
ruột. Sau đó lật vùng dạ dày và khối tá tụy sang
bên để bộc lộ vùng thận, rốn thận, niệu quản,
ĐM thận và TM thận, đồng thời quan sát vị trí
nguyên uỷ của ĐM thận xuất phát từ ĐM chủ
bụng.
- Bóc tách thận, cuống thận, TM chủ dưới,
ĐM thận, niệu quản thành một khối, đem ra
ngoài phẫu tích và làm bộc lộ rõ các mạch máu
vùng rốn và cuống thận để quan sát.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong mẫu nghiên cứu này, chúng tôi ghi
nhận được 156 quả thận với 199 ĐM thận, trong
đó có 184 ĐM rốn thận và 15 ĐM cực thận (cực
trên và cực dưới) xuất phát từ ĐM chủ.
Hình 1: Các dạng và sự hiện diện của các ĐM thận
(Theo Sampaio FJB, Passos MARF. 1992) A: một ĐM
rốn, B: Hai ĐM rốn, C: một ĐM rốn với một ĐM cực
trên, D: một ĐM rốn với một ĐM cực dưới, E: hai ĐM
rốn với một ĐM cực trên, F: hai ĐM rốn với một ĐM cực
dưới
Về số lượng ĐM thận cung cấp máu cho
thận chúng tôi ghi nhận được như sau: có 118
quả thận được cung cấp máu bởi một ĐM thận
(75,64%), 34 quả thận với 2 ĐM thận (21,79%), 3
quả thận có 3 ĐM thận (1,92%) và 1 quả thận
được cung cấp 4 ĐM thận (0,64%). Đây là cách
phân nhóm mới của tác giả Sampaio FJB, Passos
MARF. 1992(17) để phù hợp với việc cấy ghép
thận cho bệnh nhân. Số lượng, tỉ lệ các dạng ĐM
thận trong cuống thận cũng như các dạng ĐM
thận cung cấp máu cho thận chúng tôi trình bày
trong bảng 1 và hình 1.
Bảng 1: Số lượng và Tỉ lệ các dạng của ĐM
thận ở cả 2 bêna
Các dạng ĐM thận Thận Phải Thận Trái Tổng số
1 ĐM rốn (H. 1A) 61 (78,23) 57 (73,09)
118
(75,64)
2 ĐM
2 ĐM rốn (Hình 1.B) 9 (11,53) 13 (16,66) 22 (14,10)
1 ĐM rốn + 1 ĐM CT
(H. 1.C) 4 (5,12) 5 (6,41) 9 (5,77)
1 ĐM rốn + 1 ĐM CD
(H. 1.D) 2 (2,56) 1 (1,28) 3 ( 1,92)
3 ĐM
3 ĐM rốn 1 (1,28) _ 1 (0,64)
2 ĐM rốn + 1 ĐM CT
(H. 1E) _ 1 (1,28) 1 (0,64)
2 ĐM rốn + 1 ĐM CD
(H.1F) 1 (1,28) _ 1 (0,64)
4 ĐM
4 ĐM rốn _ _ _
3 ĐM rốn + 1 ĐM CT _ 1 (1,28) 1 (0,64)
3 ĐM rốn + 1 ĐM CD _ _ _
Tỉ lệ là n (%) N = 156, ĐM, động mạch; ĐM CT:
động mạch cực trên nguyên ủy từ ĐM chủ; ĐM CD:
động mạch cực dưới nguyên ủy từ ĐM chủ, N thận phải
= N thận trái = 78.
Trong nhóm 34 quả thận được cung cấp
máu bởi 2 ĐM thận chúng tôi nhận thấy có 22
quả thận được cung cấp máu 2 ĐM rốn thận,
còn lại 9 quả thận có một ĐM rốn đi kèm một
ĐM cực trên và 3 quả thận với một ĐM rốn đi
kết hợp với 1 ĐM cực dưới.
Với nhóm ba quả thận được cung cấp máu
bởi ba ĐM, chúng tôi ghi nhận được một quả
thận (bên phải) có ba ĐM rốn, một quả thận (bên
phải) có 2 ĐM rốn kèm một ĐM cực trên và một
quả thận (bên trái) còn lại có hai ĐM rốn và một
ĐM cực dưới. Như vậy trong nhóm thận có 3
ĐM rốn thận và 3 ĐM rốn kèm một ĐM cực trên
xuất phát từ chủ đã không có trong sự phân loại
này của tác giả.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 167
Bên cạnh đó, khi so sánh với các giả xem ĐM
thận chính thức chính là ĐM rốn thận và phân
nhóm theo ĐM rốn thận này, chúng tôi có kết
quả trong bảng 2. Qua bảng 2, chúng tôi nhận
thấy tỉ lệ đa ĐM thận chính thức khá thấp so với
các tác giả trong cũng như ngoài nước, duy kết
quả của chúng tôi gần giống với Khamanarong,
Prachaney, Tong-un và Sripaoraya (2004)(11) và
Basmajian(4,5). Sự khác biệt này có thể giải thích
một phần vào sự lựa chọn mẫu của chúng tôi có
được tại bộ môn Giải Phẫu học hoặc quan điểm
xem đa ĐM thận có bao gồm luôn cả ĐM cực
trên và cực dưới (các ĐM cực này xuất phát từ
ĐM chủ).
Bảng 2: Bảng So sánh các dạng ĐM rốn thận
của các tác giả
ĐM thận (ĐM rốn)
Các dạng (%) Tác giả
1 ĐM 2 ĐM 3 ĐM
Chúng tôi (156 quả thận) 83,33 15,38 1,29
Trịnh Xuân Đàn(20) 68,52 20,37 11,11
Trịnh Xuân Đàn và Lê Gia
Vinh(18) 66,6 26,7 6,7
Trịnh Xuân Đàn và Lê Văn
Minh(19) 65,8 26,8 7,4
Merklin và cs(14) 72 *
Basmajian(4, 5) 97 3
Gillapsie(7), Pick và Anson(1) 67,75 32,25
Anson(2, 3) 70 30
Khamanarong, Prachaney,
Utraravichen, Tong-un và
Sripaoraya(11)
81,64 18,36
Kater và Gray(10) Có 5 ĐM thận( hiếm)
Bảng 3: Tỷ lệ các dạng cuống thận theo Merklin
và Michele(14)
Chúng tôi Merklin MicheleCác dạng ĐM thận trong cuống
thận và rốn thận
Số ca Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ
(%)
1 ĐM rốn (I) 80 51,29 71,1
1 ĐM rốn + cho 1 nhánh cực trên
(II) 33 21,16 12,6
2 ĐM rốn (III) 12 7,69 10,8
1 ĐM rốn + 1 ĐM cực trên (IV) 9 5,77 6,2
1 ĐM rốn + 1 ĐM cực dưới (V) 3 1,92 6,9
1 ĐM rốn + 1 nhánh cực dưới (VI) 3 1,92 3,1
3 ĐM rốn thận (VII) 1 0,64 1,7
2 ĐM rốn thận (1ĐM cho nhánh
cực trên) 10 6,41 2,7
2 ĐM rốn + 1 cực trên 1 0,64
2 ĐM rốn + 1 cực dưới 1 0,64
Các trường hợp khác (VII)
(1) 3 ĐM+1 cực trên từ ĐM chủ,
(2) 1ĐM+1 cực trên+ 1cực dưới*,
(3) 1ĐM+2 cực trên+1cực dưới
(4) 1 ĐM + 2 cực trên
1
2*
_
_
0,64
1,28
_
_
Tổng 156 100% 100%
VII.2: Thận có một ĐM rốn vừa cho nhánh
cực trên và cực dưới. Ngoài ra trong mẫu
chúng tôi có 6 quả thận vừa hiện diện cả 2 ĐM
cực trên và cực dưới (6/156= 3,84%), trong đó 4
thận phải và 2 thận trái. Tuy nhiên các thận
đều có đặc điểm chung: chỉ có 1 ĐM rốn thận.
Trong đó có 2 thận (1 bên phải và 1 bên trái) có
ĐM rốn vừa cho nhánh cực trên vừa cho
nhánh cực dưới (nhóm VII.2).
Về kết quả các dạng ĐM rốn thận xuất hiện
trong mẫu khảo sát của chúng tôi giống với kết
quả của Gillapsie(7), Pick và Anson(16), nhưng với
tỷ lệ các dạng đa ĐM thận thấp hơn (16,67% so
với 32,25%). Điều này cho thấy sự khác biệt về
sự xuất hiện đa ĐM thận phụ thuộc vào nguồn
gốc chủng tộc mà Satyapal và cộng sự( 2001) đã
từng báo cáo: Châu Phi (37,1%), Ấn Độ (17,4%),
da trắng (35,3%), và da màu (18,5%). Và theo
nghiên cứu 2004 trên 534 thận được phẫu tích tại
Thái Lan, các tác giả Khamanarong, Prachaney,
Utraravichen, Tong-un và Sripaoraya(11) báo cáo
tỉ lệ đa ĐM ở dân tộc Thái Lan là 18,36%. Như
vậy tỉ lệ đa ĐM thận trong mẫu nghiên cứu này
của chúng tôi trên dân tộc Việt Nam (16,67%)
một lần nữa khẳng định gần giống như Satyapal
(18,5%) và Khamanarong, Prachaney,
Utraravichen, Tong-Un và Sripaoraya (18,36%)
đã báo cáo.
Ngoài ra, khi so sánh với tác giả Merklin và
Michele(14) nghiên cứu trên 11.000 quả thận trong
bảng 3, mẫu của chúng tôi tuy khá nhỏ (156 quả
thận) nhưng cũng cho thấy được tính đa dạng
của các ĐM thận trong cuống thận và rốn thận.
Qua bảng này, chúng ta thấy các dạng mà trong
mẫu khảo sát chúng tôi vẫn xuất hiện đầy đủ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 168
trong tất cả các dạng mà tác giả đã phân loại.
Một lần nữa lại cho thấy được ở người Việt Nam
trên mẫu khảo sát này vẫn mang đầy đủ tính
chất đa dạng mà các tác giả khác đã từng công
bố.
KẾT LUẬN
Có 156 quả thận với tất cả 199 ĐM thận cung
cấp máu cho thận (184 ĐM rốn thận, 15 ĐM cực
trên và cực dưới xuất phát từ ĐM chủ). Trong
đó tỉ lệ các ĐM thận cung cấp máu cho thận như
sau: có 118 quả thận được cung cấp máu bởi một
ĐM thận (75,64%), 34 quả thận với 2 ĐM thận
(21,79%), 3 quả thận có 3 ĐM thận (1,92%) và 1
quả thận được cung cấp 4 ĐM thận (0,64%). Tỉ lệ
xuất hiện ĐM cực trên khá cao (38,46%), ĐM cực
dưới lại thấp (5,77%).
Trong mẫu khảo sát này có đầy đủ các dạng
ĐM thận mà các tác giả trong nước và nước
ngoài đã từng công bố.
Sự xuất hiện đa ĐM thận ở người Việt
Nam có tỉ lệ gần giống với nhóm da màu mà
tác giả Satyapal báo cáo và giống với dân tộc
Thái Lan do các tác giả Khamanarong,
Prachaney, Utraravichen, Tong-Un và
Sripaoraya đã khảo sát.
Nếu không đa dạng ĐM thận chính thức thì
sẽ có sự xuất hiện đa dạng ĐM cực trên của thận
với tỷ lệ xuất hiện cao.
Sự hiện diện đa ĐM thận trong việc cung
cấp máu cho thận rất phổ biến. Sự thay đổi số
lượng ĐM thận tại rốn thận, ĐM cực trên và
cực dưới đã làm phong phú thêm tính đa dạng
của ĐM trong cuống thận, và điều này sẽ làm
phức tạp hơn cho những nhà niệu khoa trong
việc cấy ghép thận như Spanos 1973(22);
Benedetti 1995(6) và Troppmann 2001(21) đã
từng công bố trước đây.
ĐỀ XUẤT
Chúng tôi sẽ tiếp tục những nghiên cứu tiếp
theo về vấn đề này trên những cỡ mẫu lớn hơn,
đặc biệt sẽ có thêm những nghiên cứu phối hợp
thực hiện trên những phương tiện hình ảnh học
và trên người sống lúc phẫu thuật để cho các số
liệu thống kê có ý nghĩa thực tế hơn, được ứng
dụng nhiều hơn trong ngành hình thái học nói
chung và ngành niệu học nói riêng.
Kết quả nghiên cứu này cũng phần nào cho
thấy được vấn đề nguyên ủy của ĐM cực trên
cũng như sự xuất hiện ĐM cực dưới (tuy tỉ lệ
nhỏ) trong việc xếp loại các dạng ĐM thận cung
cấp máu cho toàn bộ thận. Từ đó cho thấy việc
chụp ĐM thận để khảo sát về mặt giải phẫu
trước khi lấy và ghép thận là hoàn toàn cần thiết
và là vấn đề quan trọng cho sự thành công của
cuộc phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anson B. J., Pick J.W., Catlldwell E. W. (l942): The Anatomy of
commoner renal anomalies: Etopic and horseshoe kidneys, J.
Urol. , 47: ll2.
2. Anson B.J. (1966), “The Cardiovascular System”, “Urinary
Organs in The Urogenital System”, Morris’s Human
Anatoamy, 12th Edi., McGraw-Hill. pp.731, 746 – 749, 835 –
836, 1457 – 1479.
3. Anson BJ, Daseler EH (1961), “Common variations in renal
anatomy, affecting the blood supply, form and topography”,
Surg Gynecol Obstet, 112, p. 439.
4. Basmajian J.V. (1965), “Kidney and Ureter, Great vessels of
abdomen”, Grant’ s Method of Ananatomy, th Edition,
Williams & Willkins, Baltimore/London, pp. 269 –275, 276 –
284.
5. Basmajian J.V. (1980), “Kidney and Ureter in Three paired
glands, Great vessels of abdomen”, Grant’ s Method of
Ananatomy, 10th Edition, Williams & Willkins,
Baltimore/London, pp. 174 –183.
6. Benedetti E, Troppmann C, Gillingham K, Sutherland DE,
Payne WD, Dunn DL, Matas AJ, Najarian JS, Grussner RW.
(1995). Short- and long-term outcomes of kidney transplants
with multiple renal arteries. Ann Surg 221:406–414.
7. Gillapsie C., Miller L.I., and Baskin M. (1916), “Anormalous
Renal Vessels and their Surgical Significanc, Anat.Rec.(11), p.
7.
8. Goluboff ET, Zaslau S, Klausner AP (2000): Renal Cell
Carcinoma in Urology, volume 8, part 1. pp. 1-2.
9. Green H.J. (2001), “Ghép cơ quan”, Sinh lý học lâm sàng cơ sở
(Basic Clinical Physiology), Bản dịch tiếng Việt, in lần thứ 3,
NXB Y học, trang 249.
10. Kater N.W.: Case of multiple renal arteries, J. Anat. & Physiol.
36; 77, l90l ; p.7.
11. Khamanarong K., Prachaney P., Utraravichen A., Tong-Un
T.and Sripaoraya K. (2004). Anatomy of Renal Arterial
Supply, Clin. Anat. 17: 334–336
12. Lê Trung Hải và cộng sự (2001), “Ghép thận tại Việt Nam”,
tạp chí Y học thực hành, Bộ Y tế xuất bản, (12), p. 406.
13. Lopes JA, de Almeida CJ, Hachul M, Srougi M. (1998).
Frequency of stenosis of renal the artery in 676 renal
transplantation. Rev Assoc Med Bras 44:210 –213.
14. Merklin RJ, Michele NA (1958), The variant renal and
suprarenal blood supply with data on the inferior phrenic,
ureteral and gonadal arteries: A statistical analysis baesd on
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 169
185 dissections and review of the literature. J Int Coll Surg,
(29), pp.40 – 41.
15. Morris Peter J. (2001), “Kidney Transplantation: A History”,
“Vascular and Lymphatic Complications After Renal
Transplantation”, “Urological Complications After Renal
Transplantation”, Kidney Transplantation: Principles and
Practice, 5th Edition, W.B. Saunders Company, pp. 1 – 3, 7,
419 – 422.
16. Pick J.G., and Anson B. J. (1940) The renal vascular pedicle:
An anatonlical study of 430 bodyhalves , J. Urol, 44: 4l1-, trang
6.
17. Sampaio FJB, Passos MARF. (1992). Renal arteries: anatomic
study for surgical and radiological practice. Surg Radiol Anat
14:113–117.
18. Trịnh Xuân Đàn – Lê Gia Vinh (1995), “Góp phần nghiên cứu
mạch máu cuống thận người Việt Nam trưởng thành”, Hình
thái học, Tập 5 (1), trang 14 – 15.
19. Trịnh Xuân Đàn, Lê Văn Minh (1996), “Nghiên cứu dạng có
nhiều ĐM thận”, Hình thái học, tập 6 (1), trang 32-34.
20. Trịnh Xuân Đàn (1999), Nghiên cứu giải phẫu hệ thống bể đài
thận và mạch máu, thần kinh thận của người Việt nam
trưởng thành, Luận án tiến sĩ Y học, trang 39 – 76.
21. Troppmann C, Wiesmann K, McVicar JP, Wolfe BM, Perez
RV. 2001. Increased transplantation of kidneys with multiple
renal arteries in the laparoscopic live donor nephrectomy era:
surgical technique and surgical and nonsurgical donor and
recipient outcomes. Arch Surg 136:897–907.
22. Spanos P K, Simmons R L, Kjellstrand C M, Buselmeier T J,
Najarian J S (1973) Kidney transplanation from living related
donors with multiple vessels. Am J Surg 125: 554-558.