Mở đầu: Ngộ độc độc chất động vật có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan, trong đó có thận. Tổn thương
ở thận thường biểu hiện bằng suy thận cấp (STC). STC do độc chất động vật có thể diễn tiến nặng cần phải được
điều trị thay thế thận, nặng hơn có thể đưa đến tử vong.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của STC do độc chất động vật (ong
đốt, rắn độc cắn, ngộ độc mật cá) tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2004‐2011.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu hàng loạt ca bao gồm 2 giai đoạn nghiên cứu tiền cứu (năm 2011)
và nghiên cứu hồi cứu (từ năm 2004‐2010).
Kết quả: STC thường gặp ở độ tuổi dưới 60 tuổi (76,9%). STC ở nhóm ong đốt chỉ gặp ở ong vò vẽ (họ
Vespidae); nhóm rắn độc cắn gặp ở cả 3 họ Elapidae, Viperidae, Colubridae; nhóm ngộ độc mật cá gặp ở họ
Cyprinidae. Tỷ lệ thiểu niệu‐vô niệu nhập viện là 60,6%. STC do ong đốt và rắn độc cắn thường xuất hiện trong
24 giờ đầu; ở nhóm ngộ độc mật cá thường xuất hiện trong 5 ngày đầu. Creatinin huyết thanh nhập viện là 4,1
mg/dl, creatinin huyết thanh đỉnh 7,8 mg/dl. Phần lớn các trường hợp (TH) được khảo sát thỏa tiêu chuẩn STC
tại thận. Có 77,5% TH creatine phosphokinase (CPK) nhập viện > 1000 U/L; 80,3% TH myoglobin niệu dương
tính; 28,6% TH hemoglobin niệu dương tính (chỉ gặp ở nhóm ong đốt, rắn độc cắn). Lúc nhập viện có 15,4% TH
huyết áp lúc nhập viện < 90/60 mmHg; 15,4% TH tiểu cầu <100G/L; 16,5% TH thời gian thromboplastin hoạt
hóa riêng phần (APTT) >70 giây; 34% thời gian Prothrombin (PT) > 19 giây; 92,2% TH ALT > 40 U/L; 87,5%
TH AST > 40 U/L. Chúng tôi có 55,8% TH điều trị thay thế thận; 23,1% tử vong (22,2% ở nhóm ong đốt;
51,9% ở nhóm rắn độc cắn).
Kết luận: STC do độc chất động vật thường gặp thể thiểu niệu hoặc vô niệu chiếm 60,6% các trường hợp
nhập viện. Phần lớn thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán STC tại thận. Nhu cầu điều trị thay thế thận cao (55,8%), tử
vong chỉ gặp ở nhóm ong đốt và rắn độc cắn.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm suy thận cấp do độc chất động vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 139
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SUY THẬN CẤP DO ĐỘC CHẤT ĐỘNG VẬT
Ngô Bích Tuyền*, Trần Quang Bính**, Trần Thị Bích Hương*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ngộ độc độc chất động vật có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan, trong đó có thận. Tổn thương
ở thận thường biểu hiện bằng suy thận cấp (STC). STC do độc chất động vật có thể diễn tiến nặng cần phải được
điều trị thay thế thận, nặng hơn có thể đưa đến tử vong.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của STC do độc chất động vật (ong
đốt, rắn độc cắn, ngộ độc mật cá) tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2004‐2011.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu hàng loạt ca bao gồm 2 giai đoạn nghiên cứu tiền cứu (năm 2011)
và nghiên cứu hồi cứu (từ năm 2004‐2010).
Kết quả: STC thường gặp ở độ tuổi dưới 60 tuổi (76,9%). STC ở nhóm ong đốt chỉ gặp ở ong vò vẽ (họ
Vespidae); nhóm rắn độc cắn gặp ở cả 3 họ Elapidae, Viperidae, Colubridae; nhóm ngộ độc mật cá gặp ở họ
Cyprinidae. Tỷ lệ thiểu niệu‐vô niệu nhập viện là 60,6%. STC do ong đốt và rắn độc cắn thường xuất hiện trong
24 giờ đầu; ở nhóm ngộ độc mật cá thường xuất hiện trong 5 ngày đầu. Creatinin huyết thanh nhập viện là 4,1
mg/dl, creatinin huyết thanh đỉnh 7,8 mg/dl. Phần lớn các trường hợp (TH) được khảo sát thỏa tiêu chuẩn STC
tại thận. Có 77,5% TH creatine phosphokinase (CPK) nhập viện > 1000 U/L; 80,3% TH myoglobin niệu dương
tính; 28,6% TH hemoglobin niệu dương tính (chỉ gặp ở nhóm ong đốt, rắn độc cắn). Lúc nhập viện có 15,4% TH
huyết áp lúc nhập viện < 90/60 mmHg; 15,4% TH tiểu cầu <100G/L; 16,5% TH thời gian thromboplastin hoạt
hóa riêng phần (APTT) >70 giây; 34% thời gian Prothrombin (PT) > 19 giây; 92,2% TH ALT > 40 U/L; 87,5%
TH AST > 40 U/L. Chúng tôi có 55,8% TH điều trị thay thế thận; 23,1% tử vong (22,2% ở nhóm ong đốt;
51,9% ở nhóm rắn độc cắn).
Kết luận: STC do độc chất động vật thường gặp thể thiểu niệu hoặc vô niệu chiếm 60,6% các trường hợp
nhập viện. Phần lớn thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán STC tại thận. Nhu cầu điều trị thay thế thận cao (55,8%), tử
vong chỉ gặp ở nhóm ong đốt và rắn độc cắn.
Từ khóa: suy thận cấp, độc chất động vật, ong đốt, rắn cắn, ngộ độc mật cá
ABSTRACT
THE CLINICAL FEATURES OF ACUTE RENAL FAILURE DUE TO ANIMAL TOXINS
Ngo Bich Tuyen, Tran Quang Binh,Tran Thi Bich Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 139 ‐ 146
Background: Kidney as well as other organ damages can be injured by intended or unintended animal
toxins. Acute renal failure (ARF) due to animal toxins could be severe enough to need renal replacementtherapy
or to proceed to die.
Objectives: To describe the clinical manifestations, laboratory findings and treatment outcomes of ARF due
to animal toxins in Cho Ray hospital from 2004 to 2011.
Method: A large case series study was carried out in 2 periods: a review of retrospective data from 2004 to
2010 and a prospective study in 2011.
Results: ARF due to animal toxins accounted 76.9% of the age under 60 years. ARF has been observed
* Khoa Thận ‐ Bệnh viện Chợ Rẫy ** Khoa Bệnh Nhiệt Đới, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên hệ: BS Ngô Bích Tuyền ĐT: 0908140171 Email: ngobichtuyen84@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 140
following bee stings as swasp (Vespidae family); by venomous snake from 3 families of Elapidae, Viperidae,
Colubridae; by ingestion fish gallbladder (Cyprinidae family). On admission, 60.6% of patients had oliguria or
anuria. ARF due to bee stings and snakebite occurred within the first 24 hours; whereas later within the first 5
days after ingestion fish gallbladder. The serum creatinine on admission was 4.1 mg/dl; and went up to peak of
7.8 mg/dl. Creatinine phosphokinase (CPK) increased over 1000 U/L in 77.5%; myoglobinuria and
hemoglobinuria detected in 80.3% and 28.6% respectively (only in bee stings and snakebite groups). On
admission, 15.4% had low blood pressure (below 90/60 mmHg); 16.5% APTT over 70 sec; 34% PT over 15 sec;
92.2% ALT over 40 U/L and 87.5% AST > 40 U/L. Renal replacement therapy were indicated in 55.8%; the
mortality was 23.1% (in which 22.2% in bee stings group and 51.9% in snakebite group).
Conclusion: Oliguria or anuria occurred in 60.6% of patients with ARF due to animal toxins. Most of
cases met criteria of intrinsic ARF, in which 55.8% needed renal replacement therapy. Death only occurred in bee
stings and snakebite groups.
Key words: Acute renal failure, animal toxins, bee stings, snakebite, fish gallbladder ingestion.
MỞ ĐẦU
Từ lâu ngộ độc độc chất động vật đã trở
thành vấn đề toàn cầu do có tiềm năng nguy hại
cho con người qua việc gây tổn thương cho
nhiều cơ quan. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, trung
bình mỗi năm có khoảng 2500 trường hợp (TH)
ngộ độc nhập viện, trong đó rắn và côn trùng
cắn chiếm 34,7%(18). Tỷ lệ suy thận cấp (STC) sau
khi tiếp xúc độc chất của ong và rắn độc dao
động từ 0,99‐58,5%(3,10,22); STC do ngộ độc mật cá
chiếm tỷ lệ cao hơn 50‐100%(4). Tử vong ở nhóm
ong đốt và rắn độc cắn từ 3‐26,3%(2,3,22). Trong
giai đoạn trước 2004(4,17,22,23), chúng tôi ghi nhận
đã có nhiều nghiên cứu riêng biệt STC do ong
đốt hoặc do ngộ độc mật cá tại bệnh viện Chợ
Rẫy. Do vậy, chúng tôi muốn nghiên cứu đề tài
này nhằm mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng,
cận lâm sàng và kết quả điều trị của STC do độc
chất động vật (ong đốt, rắn độc cắn, ngộ độc mật
cá) tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2004‐2011.
ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân trên 16 tuổi được chẩn
đoán STC do ong đốt, rắn độc cắn, ngộ độc
mật cá nhập khoa Thận, khoa Bệnh Nhiệt Đới,
khoa Săn Sóc Đặc Biệt bệnh viện Chợ Rẫy.
Chẩn đoán STC dựa vào mức độ F (Failure)
theo tiêu chuẩn RIFLE(6).
Bảng 1. Phân loại tổn thương thận cấp theo tiêu
chuẩn RIFLE
Mức độ Tiêu chuẩn GFR Tiêu chuẩn nước tiểu
R (Risk) Creatinin tăng 1,5 lần hoặc GFR giảm > 25%
<0,5ml/kg/giờ
x 6 giờ
I (Injury) Creatinin tăng 2 lần hoặc GFR giảm > 50%
<0,5ml/kg/giờ
x 12 giờ
F (Failure)
Creatinin tăng 3 lần hoặc GFR
giảm ≥75% hoặc Creatinin ≥
4mg/dl với tăng cấp >0,5mg/dl
<0,3ml/kg/giờ
x 24 giờ
hay vô niệu x
12 giờ
L (Loss) Suy thận cấp kéo dài hoặc mất hoàn toàn chức năng thận > 4 tuần
E (End stage
renal
disease)
Mất hoàn toàn chức năng thận > 3 tháng
Tiêu chuẩn loại trừ
(1) Không phải người Việt Nam, (2) TH
được chẩn đoán suy thận mạn trước đó, (3)TH
được chẩn đoán STC do nguyên nhân khác.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu hàng loạt ca, bao gồm 2
giai đoạn:
‐Nghiên cứu tiền cứu từ tháng 1 đến tháng
12 năm 2011.
‐Nghiên cứu hồi cứu dựa vào tra cứu hồ sơ
điều trị nội trú tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm
2004‐2010 với chẩn đoán xuất viện có từ khóa
“ong đốt”, “rắn cắn”, “ngộ độc mật cá” (207
TH). Sau đó chọn lại những TH chẩn đoán có
thêm từ khóa “suy thận cấp”, “suy đa cơ quan”
(98 TH). Chúng tôi tiến hành đọc hồ sơ và chọn
được 89 hồ sơ có ghi đủ dữ kiện lâm sàng, xét
nghiệm để tổng kết.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 141
Quy trình lấy mẫu
Nghiên cứu tiền cứu
Từ 01/01/2011‐31/12/2011, ghi nhận 15 TH
nhập viện với chẩn đoán STC do độc chất động
vật (ong đốt, rắn độc cắn, ngộ độc mật cá). Các
TH được hỏi bệnh, khám, được xét nghiệm chẩn
đoán STC (BUN, creatinin huyết thanh 2 ngày
liên tiếp, ion đồ máu, siêu âm bụng đo kích
thước thận). Ngoài ra còn được tiến hành các xét
nghiệm chẩn đoán nguyên nhân STC (áp lực
thẩm thấu nước tiểu, phân suất thải Natri (FENa),
phân suất thải Ure (FEUN), chỉ số suy thận).
Những TH không vô niệu hoàn toàn được lấy
mẫu nước tiểu ở thời điểm bất kỳ để soi tươi,
khảo sát cặn lắng tìm trụ hạt nâu bùn.
‐Phân suất thải Natri: FENa = (UNa x PCre)/(PNa
x UCre) x 100
Phân suất thải urê: FEUN = (UUN x PCre)/(PUN x
UCre) x 100
Chỉ số suy thận: UNa/UCre/PCre
UNa: Nồng độ Natri niệu, UUN: Nồng độ urê
niệu, UCre: Nồng độ creatinin niệu.
PNa: Nồng độ Natri huyết thanh, PUN: Nồng
độ urê huyết thanh, PCre: Nồng độ creatinin
huyết thanh.
Nghiên cứu hồi cứu
Từ 01/01/2004‐31/12/2010 ghi nhận 89 TH.
Bao gồm 38 TH STC do ong đốt, 24 TH STC do
rắn độc cắn, 27 TH STC do ngộ độc mật cá.
Các định nghĩa dùng trong nghiên cứu
‐Thiểu niệu: Thể tích nước tiểu < 400ml/24
giờ.
Vô niệu: Thể tích nước tiểu < 100ml/24 giờ.
‐Huyết áp trung bình = (2 x huyết áp tâm
trương + huyết áp tâm thu)/3.
Hạ huyết áp: Huyết áp < 90/60 mmHg.
Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng SPSS 16.0. Các
biến số định lượng không có phân phối chuẩn,
được trình bày: trung vị [25%,75%]. Các biến
số định tính trình bày dưới dạng trị số, tỷ lệ
phần trăm n(%). p < 0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Để mô tả tương đối hoàn chỉnh đặc điểm
của STC do độc chất động vật, chúng tôi kết hợp
số liệu của 2 giai đoạn nghiên cứu tiền cứu (15
TH) và hồi cứu (89 TH) để thành 104 TH STC do
độc chất động vật, trong đó, 45 TH STC do ong
đốt, 27 TH STC do rắn độc cắn, 32 TH STC do
ngộ độc mật cá.
Do bệnh viện Chợ Rẫy là tuyến cuối nên
102/104 TH nhập viện với chẩn đoán ban đầu là
STC, chỉ có 2 TH (1 TH ong đốt ở Thành phố Hồ
Chí Minh, 1 TH rắn độc cắn ở Bình Dương) trực
tiếp đến bệnh viện ngay sau khi tiếp xúc độc
chất, với chức năng thận bình thường (creatinin
huyết thanh lần lượt là 1,2 mg/dl và 1,1 mg/dl)
nhưng creatinin huyết thanh tăng nhanh sau đó
nên được thu thập vào nghiên cứu.
Về tác nhân gây STC, 45 TH ong đốt đều do
ong vò vẽ, với số nốt đốt có trung vị 50, nhiều
nhất 225 nốt. Trong 27 TH rắn độc cắn, loại rắn
cắn thuộc 3 họ, họ Elapidae (15 TH rắn hổ mèo,
3 TH rắn hổ đất), họ Viperidae (6 TH rắn lục, 2
TH rắn chàm quạp) và họ Colubridae (1 TH rắn
sãi cổ đỏ), với trung vị vết rắn cắn là 2, nhiều
nhất là 4 vết. Trong 32 TH ngộ độc mật cá, ghi
nhận tất cả thuộc họ Cyprinidae (14 TH do mật
cá ét, 10 TH mật cá trắm cỏ, 3 TH mật cá mè, 2
TH mật cá chép, 2 TH mật cá trôi, 1 TH mật cá
hô) với số mật cá bệnh nhân đã nuốt có trung vị
là 1, nhiều nhất là 4 mật cá.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 142
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của STC do độc chất động vật
Đặc điểm Chung (N = 104)
Tác nhân
P
Ong (N = 45) Rắn độc (N = 27) Mật cá (N = 32)
Tuổi (năm) 45,5 [34,3-58,8] 58 [37,5-73] 43 [32-54] 37 [30-51,5] 0,004
Số TH < 60 tuổi 80 (76,9) 25 (55,6) 24 (88,9) 31 (96,9)
Số TH thiểu-vô niệu 63 (60,6) 27 (60) 14 (51,9) 22 (68,8)
Thời gian thiểu-vô niệu (ngày) 4 [2-8] 6 [2-10,8] 2,5 [1,8-4,3] 4 [1-6,3] 0,039
Thời gian từ tiếp xúc độc chất
đến nhập viện (ngày) 2 [1-4] 1 [0-3] 1 [0-3] 5 [3-7] <0,001
Creatinin huyết thanh nhập viện (mg/dl) 4,1 [2,4-8,1] 3,4 [2,2-4,8] 2,9 [2-3,9] 8,7 [7,4-12] <0,001
Creatinin huyết thanh đỉnh (mg/dl) 7,8 [4,2-10,8] 7,1 [3,6-9,6] 4,7 [3,2-6,8] 11,3 [9,4-12,5] <0,001
Tỷ lệ thiểu‐vô niệu chiếm 51,9% ở nhóm rắn
độc cắn; 60% ở nhóm ong đốt và 68,8% ở nhóm
ngộ độc mật cá (bảng 2). Thời gian thiểu‐vô niệu
của STC do độc chất động vật dao động từ 1‐21
ngày, trong đó TH thiểu‐vô niệu dài nhất ở
nhóm ong đốt là 21 ngày, nhóm rắn độc cắn và
ngộ độc mật cá là 12 ngày. TH có thời gian
thiểu‐vô niệu dài nhất ở nhóm ong đốt có số nốt
đốt là 50 nốt, không có tương quan giữa số nốt
đốt và thời gian thiểu‐vô niệu (p = 0,847).
Bảng 3. Các tổn thương ngoài thận của STC do độc chất động vật
Đặc điểm Chung (N = 104)
Tác nhân
P Ong
(N = 45) Rắn độc (N = 27) Mật cá (N = 32)
Hạ huyết áp nhập viện 16 (15,4) 6 (13,3) 10 (37) 0
CPK nhập viện (U/L) 7236 [1406,3-29800] 21900 [7000-39600] 7132 [1713-14200] 189,5 [76,5-1305,8] <0,001
APTT nhập viện >70 giây 17 (16,5) 9 (20,5) 8 (29,6) 0
PT nhập viện >15giây 35 (34) 16 (36,4) 19 (70,4) 0
Tiểu cầu nhập
viện<100G/L 16 (15,4) 5 (11,1) 11 (40,7) 0
ALT nhập viện (U/L) 569 [152-1260] 1026 [425,3-2087,5] 92 [36-196] 611 [308,3-1248,5] <0,001
ALT > 40U/L 95 (92,2) 43 (97,7) 20 (74,1) 32 (100)
AST nhập viện (U/L) 491 [107-2285] 2795 [892,5-5547,5] 389 [188-970] 115,5 [36,5-292,3] <0,001
AST > 40U/L 91 (87,5) 43 (97,7) 25 (92,6) 26 (81,3)
Myoglobin niệu 61 (80,3) 35 (92,1) 17 (89,5) 9 (47,4)
Hemoglobin niệu 14 (28,6) 12 (37,5) 2 (40) 0
Chỉ có 62/80 TH (77,5%) ghi nhận CPK nhập
viện > 1000U/L (36/39 TH ở nhóm ong đốt; 21/21
TH ở nhóm rắn độc cắn; 5/20 TH ở nhóm ngộ
độc mật cá). Trong đó có 61/76 (80,3%) có
myoglobin niệu dương tính.
Chỉ 49 TH được xét nghiệm hemoglobin
niệu, trong đó 14 TH (28,6%) dương tính có
trung vị của hemoglobin huyết thanh nhập viện
là 135g/L.Tất cả 14 TH đều có bilirubin toàn
phần trên 1,2 mg/dl với trung vị của bilirubin
trực tiếp nhập viện là 1,4 mg/dl.
Về màu sắc nước tiểu của bệnh nhân, chúng
tôi ghi nhận chỉ có 7/104 TH (6,7%) nước tiểu có
màu xá xị, chỉ gặp ở nhóm ong đốt (6 TH), rắn
độc cắn (1 TH); cả 7 TH đều có myoglobin niệu
dương tính, 2/4 TH được khảo sát hemoglobin
niệu có kết quả dương tính.
Bảng 4. Biến chứng của STC do độc chất động vật
Đặc điểm Chung (N = 104)
Tác nhân
P
Ong (N = 45) Rắn độc (N = 27) Mật cá (N = 32)
Natri huyết thanh nhập viện (mmol/L) 131 [128-135] 133 [129-136,5] 130 [127-135] 130,5 [126,3-133] 0,058
Kali huyết thanh nhập viện (mmol/L) 4,1 [3,5-4,7] 4,5 [4-5,3] 4 [3,4-4,6] 3,7 [3,4-4,1] 0,002
Phù phổi cấp 6 (5,8) 3 (6,7) 2 (7,4) 1 (3,1)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 143
Chúng tôi có 77 TH có natri huyết thanh
nhập viện <135mmol/L; trong đó 29 TH (64,4%)
ở nhóm ong đốt; 20 TH (74,1%) ở nhóm rắn độc
cắn và 28 TH (87,5%) ở nhóm ngộ độc mật cá.
Có 22 TH có kali huyết thanh nhập viện
>5mmol/L mà chủ yếu ở nhóm ong đốt 15 TH
(33,3%); ít nhất ở nhóm ngộ độc mật cá (3TH,
9,4%). Trong 6 TH phù phổi cấp, 1 TH bị rắn
chàm quạp cắn và bị phù phổi cấp sau 48 giờ
truyền huyết thanh kháng nọc rắn.
Với nhóm nghiên cứu tiền cứu, chúng tôi
khảo sát đầy đủ các xét nghiệm sinh hóa. Kết
quả thu được là 12 TH FENa >1% (5 TH đã sử
dụng lợi tiểu trước đó); 12 TH chỉ số suy thận >1;
8 TH FEUN >50% (4 TH đã sử dụng lợi tiểu); 11
TH Creatinin niệu/Creatinin huyết thanh < 20; 9
TH Natri niệu >40mmol/L; 9 TH Urê niệu/Urê
huyết thanh <3; 8 TH áp lực thẩm thấu niệu <350
mOsm/kgH2O; 11 TH BUN/Creatinin huyết
thanh <20. Chúng tôi có 7/12 TH có trụ hạt nâu
bùn (3 TH nhóm ong đốt, 4 TH nhóm ngộ độc
mật cá). Chúng tôi không tiến hành sinh thiết
thận ở những TH này.
Bảng 5. Kết quả điều trị của STC do độc chất động
vật
Đặc điểm Chung (N = 104)
Tác nhân
Ong
(N = 45)
Rắn độc
(N = 27)
Mật cá
(N =32)
Nhu cầu điều trị
thay thế thận 58 (55,8) 28 (62,2) 9 (33,3) 21 (65,6)
Nhu cầu thay
thế thận 53 (91,4) 24 (85,7) 8 (88,9) 21 (100)
Lọc máu
liên tục 5 (8,6) 4 (14,3) 1 (11,1) 0
Tỷ lệ tử vong 24 (23,1) 10 (22,2) 14 (51,9) 0
Phần lớn 80 TH (76,9%) sống sót và xuất
viện sau STC do độc chất động vật. Có 58 TH
(55,8%) cần được điều trị thay thế thận. Tại thời
điểm điều trị thay thế thận, các bn có trung vị
của BUN là 75,5 mg/dL; creatinin huyết thanh là
7,9mg/dL; kali huyết thanh là 4,4 mmol/L. Có
50% các TH điều trị thay thế thận diễn ra vào
ngày thứ 5 sau khi tiếp xúc với độc chất động
vật. Có 5 TH ong đốt và rắn độc cắn được lọc
máu liên tục tại khoa Săn Sóc Đặc Biệt do tình
trạng rối loạn huyết động lúc nhập viện, 5 TH
này đều trong bệnh cảnh rất nặng suy đa cơ
quan và tử vong.
Các nguyên nhân tử vong gặp ở nhóm ong
đốt là choáng phản vệ, suy đa cơ quan (7 TH);
phù phổi cấp, suy đa cơ quan (1 TH); viêm phổi
bệnh viện, suy đa cơ quan (1 TH); suy hô hấp,
STC giai đoạn đa niệu, suy gan cấp (1 TH). Khảo
sát nhóm ong đốt chúng tôi nhận thấy hạ huyết
áp nhập viện làm tăng nguy cơ tử vong tử vong
(p = 0,005); điều trị thay thế thận không làm
giảm tỷ lệ tử vong (p =0,565); APTT (giây) nhập
viện ở nhóm tử vong 67,7 [39,7‐119,5] cao hơn
nhóm còn sống 40,3 [32,8‐54,3] với p = 0,039; PT
(giây) nhập viện (16,2 [14,7‐19,7] cao hơn nhóm
còn sống 13,8 [12,7‐15,6] với p = 0,006. Nhóm rắn
độc cắn có 7/27 (25,9%) được sử dụng huyết
thanh kháng nọc rắn, trong số này có 3 TH tử
vong. Nguyên nhân tử vong gặp ở nhóm rắn
độc cắn là choáng nhiễm trùng, nhiễm độc, suy
đa cơ quan (7 TH); rối loạn đông máu nặng, suy
đa cơ quan (3 TH); choáng phản vệ, suy đa cơ
quan (3 TH); nhồi máu cơ tim vỡ thành tự do
thất trái, suy đa cơ quan (1 TH). Khảo sát nhóm
rắn độc cắn chúng tôi ghi nhận hạ huyết áp
nhập viện và điều trị thay thế thận không làm
thay đổi tỷ lệ tử vong (với p lần lượt 0,883 và
0,785); chỉ có yếu tố tuổi là khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm tử vong và còn sống (50
[42,8‐58,8] và 36 [22,5‐46])với p =0,009.
BÀN LUẬN
Đặc điểm loại động vật gây STC. STC do
ong đốt của chúng tôi chỉ gặp ở ong vò vẽ, phù
hợp Nguyễn Xuân Bích Huyên(22), Phạm Thị
Chải(17) tiến hành nghiên cứu tại bệnh viện Chợ
Rẫy trước năm 2004. Ngoài ong vò vẽ, theo
Sitprija V(21) STC còn có thể gặp ong bắp cày và
ong mật. Như nghiên cứu của Mejía‐Vélez
G(16), Daher EDF(7) ghi nhận STC do ong
Africanized (họ Apidae). Số nốt đốt của chúng
tôi có trung vị là 50 nốt, cao nhất là 225 nốt
tương tự Phạm Thị Chải(17). Nhưng Daher
EDF(7) ghi nhận số nốt đốt có thể lên đến 600‐
1500. Theo Schumacher MJ(19), nạn nhân cần
phải nhận 1 lượng lớn độc chất của ong từ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 144
khoảng 1000 nốt đốt mới có thể dẫn đến tác
dụng độc trực tiếp trên thận, mỗi lần đốt ong
có thể tiêm tối đa 90μg độc chất (lượng 1 ong
trưởng thành có trong bao nọc độc). Tuy nhiên
không phải tất cả các loài ong đều chứa 1
lượng độc chất như nhau, mỗi lần tiêm vào
nạn nhân cũng với 1 lượng khác nhau. Bên
cạnh đó, còn có những cơ chế khác có thể phối
hợp dẫn đến STC ở ong(19).
Trong nhóm rắn độc cắn, nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận STC do rắn họ Elapidae, họ
Viperidae và họ Colubridae; giống với Sitprija
V(21). Nhưng Athappan G(3) chỉ gặp STC ở họ
Viperidae. Ở nhóm mật cá, chúng tôi ghi nhận
STC do mật cá họ Cyprinidae tương tự các tác
giả khác(5,13,14,23). STC thường xảy ra sau nuốt 1‐3
mật cá(13). Nghiên cứu chúng tôi chỉ có 1 TH nuốt
4 mật cá, trong khi đó Huỳnh Thị Minh Trinh(14)
ghi nhận 1 TH nuốt gần 50 mật cá.
Thời gian từ tiếp xúc độc chất‐nhập viện ở
nhóm ong đốt và nhóm rắn độc cắn đều có
trung vị 1 ngày, ngộ độc mật cá là 5 ngày. Tại
thời điểm nhập bệnh viện Chợ Rẫy có 102/104
TH được chẩn đoán STC, còn lại 1 TH ong đốt, 1
TH rắn độc cắn nhập viện ngay sau khi tiếp xúc
độc chất, được chẩn đoán STC sau 1 ngày nằm
viện. Nên chúng tôi chỉ có thể kết luận thời điểm
xuất hiện STC sau khi bị ong đốt là trong 24 giờ
đầu, tương tự Sitprija V(21). Trong khi đó có báo
cáo cho thấy STC có thể xảy ra trễ hơn