Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát đặc tính mô học và bệnh học của động mạch ngực trong hai bên,
động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và phân tích các yếu tố nguy cơ,
các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học của hai loại động mạch này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 đoạn động mạch ngực trong hai bên và 33 đoạn động mạch vị
mạc nối phải thu thập từ các bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch vành được khảo sát đặc tính mô học và
bệnh học bằng kính hiển vi quang học. Chúng tôi cũng ghi nhận các yếu tố nguy cơ của ở các bệnh nhân để tìm
mối liên quan giữa chúng và đặc tính bệnh học của động mạch ghép.
Kết quả: Đặc tính mô học của động mạch ghi nhận ở động mạch ngực trong hai bên có 16,7% loại đàn hồi,
58,9% loại cơ. Phần lớn các đoạn động mạch vị mạc nối phải là loại cơ (87,9%). Số lượng trung bình các khoảng
hở ở lớp màng đáy của động mạch vị mạc nối phải (41) cao hơn ở động mạch ngực trong hai bên (30) (p<0,02).
Đường kính trung bình của động mạch vị mạc nối phải 2,06 ± 0,62 mm lớn hơn động mạch ngực trong 1,81 ±
0,47 mm (p<0,016). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ dày của lớp nội mạc giữa hai loại động mạch. Động
mạch ngực trong mỏng hơn động mạch vị mạc nối phải (p<0,024), nhưng độ dày của lớp trung mạc thì như
nhau (p>0,05). Khảo sát đặc tính bệnh học cho thấy ở động mạch ngực trong hai bên tỉ lệ tăng sinh nội mạc là
47,8%, tổn thương xơ vữa là 1,1% không có trường hợp vôi hóa động mạch. Động mạch vị mạc nối phải có tỉ lệ
tăng sinh nội mạc là 67,9%, tỉ lệ xơ vữa là 8,2% và 4,01% vôi hóa động mạch. Đánh giá mức độ tăng sinh nội
mạc trên từng loại động mạch cho thấy động mạch ngực trong hai bên có độ 0, I, II, III tương ứng là 62,2%;
17,7%; 7,7%; 12,4%. Ở động mạch vị mạc nối phải các giá trị này là 31,2%; 44,2%; 18,1% và 16,5%. So sánh
độ hẹp lòng mạch máu cũng ghi nhận ở động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong (p<0,01).
Phân tích các yếu tố nguy cơ và các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học mạch máu chỉ tìm thấy tình trạng
tăng huyết áp trên các bệnh nhân sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối có liên quan đến bệnh học của
động mạch này.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc tính mô bệnh học động mạch ngực trong hai bên và động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 362
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH MÔ BỆNH HỌC ĐỘNG MẠCH NGỰC TRONG
HAI BÊN VÀ ĐỘNG MẠCH VỊ MẠC NỐI PHẢI SỬ DỤNG TRONG PHẪU
THUẬT BẮC CẦU MẠCH VÀNH
Đoàn Văn Phụng*, Tohru Asai**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát đặc tính mô học và bệnh học của động mạch ngực trong hai bên,
động mạch vị mạc nối phải sử dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và phân tích các yếu tố nguy cơ,
các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học của hai loại động mạch này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 đoạn động mạch ngực trong hai bên và 33 đoạn động mạch vị
mạc nối phải thu thập từ các bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu động mạch vành được khảo sát đặc tính mô học và
bệnh học bằng kính hiển vi quang học. Chúng tôi cũng ghi nhận các yếu tố nguy cơ của ở các bệnh nhân để tìm
mối liên quan giữa chúng và đặc tính bệnh học của động mạch ghép.
Kết quả: Đặc tính mô học của động mạch ghi nhận ở động mạch ngực trong hai bên có 16,7% loại đàn hồi,
58,9% loại cơ. Phần lớn các đoạn động mạch vị mạc nối phải là loại cơ (87,9%). Số lượng trung bình các khoảng
hở ở lớp màng đáy của động mạch vị mạc nối phải (41) cao hơn ở động mạch ngực trong hai bên (30) (p<0,02).
Đường kính trung bình của động mạch vị mạc nối phải 2,06 ± 0,62 mm lớn hơn động mạch ngực trong 1,81 ±
0,47 mm (p<0,016). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ dày của lớp nội mạc giữa hai loại động mạch. Động
mạch ngực trong mỏng hơn động mạch vị mạc nối phải (p<0,024), nhưng độ dày của lớp trung mạc thì như
nhau (p>0,05). Khảo sát đặc tính bệnh học cho thấy ở động mạch ngực trong hai bên tỉ lệ tăng sinh nội mạc là
47,8%, tổn thương xơ vữa là 1,1% không có trường hợp vôi hóa động mạch. Động mạch vị mạc nối phải có tỉ lệ
tăng sinh nội mạc là 67,9%, tỉ lệ xơ vữa là 8,2% và 4,01% vôi hóa động mạch. Đánh giá mức độ tăng sinh nội
mạc trên từng loại động mạch cho thấy động mạch ngực trong hai bên có độ 0, I, II, III tương ứng là 62,2%;
17,7%; 7,7%; 12,4%. Ở động mạch vị mạc nối phải các giá trị này là 31,2%; 44,2%; 18,1% và 16,5%. So sánh
độ hẹp lòng mạch máu cũng ghi nhận ở động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong (p<0,01).
Phân tích các yếu tố nguy cơ và các bệnh lý đi kèm liên quan đến bệnh học mạch máu chỉ tìm thấy tình trạng
tăng huyết áp trên các bệnh nhân sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối có liên quan đến bệnh học của
động mạch này.
Kết luận: Nghiên cứu tìm thấy một tỉ lệ cao động mạch ngực trong hai bên là loại cơ trong khi nhiều nghiên
cứu trước đây ghi nhận chúng hoàn toàn là loại đàn hồi. Số lượng các khoảng hở ở lớp màng đáy mạch máu ở
động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn động mạch ngực trong. Kích thước của động mạch vị mạc nối phải lớn hơn
động mạch ngực trong thuận lợi cho thực hiện miệng nối. Mức độ tăng sinh nội mạc của hai loại động mạch
trung bình, tổn thương xơ vữa và vôi hóa ít. Có thể sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối mạch vành
thương tự như động mạch ngực trong về gốc độ mô và bệnh học. Ngoài ra, cần lưu ý kiểm soát huyết áp trên các
bệnh nhân có sử dụng động mạch vị mạc nối phải làm cầu nối mạch vành vì nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa tình trạng tăng huyết áp và tăng sinh nội mạc trên động mạch này.
Từ khóa: động mạch ngực trong, động mạch vị mạc nối, phẫu thuật bắc cầu mạch vành.
* . Bệnh viện Chợ Rẫy ** Đại học Y Khoa Shiga -Nhật Bản
Tác giả liên lạc: BS. Đoàn Văn Phụng ĐT: 0918475300 Email: doanvanphung@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 363
ABSTRACT
STUDY HISTOPATHOLOGICAL PROPERTIES OF INTERNAL THORACIC ARTERY
AND RIGHT GASTROEPIPLOIC ARTERY USED AS CORONARY BYPASS GRAFTING
Doan Van Phung, Tohru Asai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 361- 368
Background: In this study, we investigated the histologic and pathological properties of internal thoracic
arteries (ITAs) and right gastroepiploic arteries (RGEAs), analyzed the risk factors correlated with their
pathologies.
Methods and results: 90 segments of ITAs obtained from 54 patients and 33 segments of RGEAs from 33
patients who underwent CABG, were evaluated histologic and pathological characteristics by light microscopy.
The risk factors of those patients were also recorded. In histologic evaluation, elastic type were found in 15 of 99
ITAs (16.7%) whereas muscular type were 53 of 99 ITAs (58.9%). In RGEAs, the majority of specimens were
muscular type ( 29 of 33 RGEAs 87.9%). The mean number of discontinuity in the internal elastic lamina in
RGEAs (41) were more greater than that in ITAs (30),p< 0.02. Morphometric analysis showed that the diameter
of the vessel was found to be more in RGEAs (range 1.19 – 3.73 mean 2.06 ± 0.62 mm) in comparision with the
ITAs (range 0.98 – 3.53, mean 1.81± 0.47 mm) p<0.016. There was a statistically significant difference between
two kinds of grafts in intimal thickening ( ITAs:mean 65.59 ± 180.9 µm, RGEAs: mean 167.89± 303.58 µm),
p<0.024. There was not statistically significant difference in medial thickening between (ITAs: mean 161.18±
59.29 µm, RGEAs mean 177.69± 62.73 µm)p> 0.05. Pathological examination of RGEAs and ITAs were also
recorded that intimal hyperplasia were seen in 22 of 33 specimens (67.9%), 43 of 90 specimens (47.8%),
respectively. Atherosclerosis were seen in 8.2% of RGEAs and 1.1% of ITAs. Medial calcification was found only
in 3 of 33 RGEAs (4.01%). The mean degree of pathology (scale from 0 to 3) showed that in ITAs had 62.2%
grade 0, 17.7% grade 1, 7.7% grade 2 and 12.4% grade 3. in RGEAs had 31.2% grade 0, 44.2% grade 1, 18.1%
grade 2 and 16.5% grade 3. Comparision of the severity of intimal hyperplasia between RGEAs and ITAs by
using the percentage of luminal narrowing showed that the intimal hyperplasia in RGEAs group ( mean 0.85±
0.13 range 0.25- 0.98) was significantly greater than in ITAs group (mean 0.92± 0.11 range 0.19- 0.99), p<0,01.
Analyzing the risk factors for the pathology of two grafts were found that only the presence of arterial
hypertension had correlated with the development of intimal hyperplasia in RGEAs.
Conclusions: Study of the ITA and RGEA segments remaining after coronary artery bypass grafting
demonstrated that more than half of ITA grafts were muscular type whereas the previous investigations recorded
to be elastic type in the majority of them. There was a significant difference in the histologic and pathological
properties of two kinds of grafts studied. The RGEA grafts showed larger morphometric characteristics, more
defects in continuity of internal elastic lamina and more having muscular types in the media than ITAs. They
were also recorded more likely to have a development of intimal hyperplasia, atherosclerosis and medial
calcification than the ITAs. In addition, in this study, the presence of arterial hypertension had correlated with the
developments of intimal hyperplasia in RGEA grafts. We should consider tightly control the arterial hypertension
in patients using the RGEAs for CABG
Key words: internal thoracic artery, right gastroepiploic artery, coronary bypass grafting
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cầu nối bằng động mạch ngực trong thường
được sử dụng rất phổ biến trong phẫu thuật bắc
cầu mạch vành vì độ bền cao và sự thay đổi về
đặc tính mô bệnh học ít. Việc sử dụng hiệu quả
động mạch ngực trong một bên và hai bên thúc
đẩy các phẫu thuật viên tim mạch tìm kiếm các
loại động mạch khác làm cầu nối tái tưới máu
toàn bộ mạch vành(7,9,12).
Động mạch vị mạc nối phải là một trong các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 364
động mạch được nghiên cứu và sử dụng phối
hợp với động mạch ngực trong một bên và hai
bên để tưới máu toàn diện cơ tim(7,13).Với vị trí,
kích thước và độ dài thích hợp cho việc thực
hiện các miệng nối vào nhánh động mạch vành
phải, nhánh mũ động mạch vành trái, nó ngày
càng trở nên được sửa dụng rộng rãi trong
những năm gần đây.
Bên cạnh việc sử dụng chẩn đoán hình ảnh
như siêu âm mạch máu, chụp dựng hình mạch
máu, chụp cản quang mạch máu đề đánh giá độ
bền của cầu nối, khảo sát đặc tính mô học và
bệnh lý học cũng góp phần tiên lượng được tuổi
thọ của cầu nối trong phẫu thuật bắc cầu động
mạch vành.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
90 đoạn động mạch ngực trong hai bên thu
thập từ 54 bệnh nhân và 33 đoạn động mạch vị
mạc nối phải từ 33 bệnh nhân được phẫu thuật
bắc cầu động mạch vành tại Bệnh viện đại học Y
khoa Shiga, Nhật Bản trong thời gian từ tháng
11/2010 đến 8/2011. Tất cả các đoạn động mạch
này được lấy từ những đoạn động mạch còn lại
sau khi sử dụng làm cầu nối mạch vành. Các
bệnh nhân được thông báo và đồng ý sử dụng
đoạn động mạch làm nghiên cứu. Tuổi trung
bình của nhóm bệnh nhân sử dụng động mạch
ngực trong hai bên là 67 tuổi; nhóm động mạch
vị mạc nối phải là 68 tuổi. Các yếu tố nguy cơ và
bệnh lý đi kèm được ghi nhận bao gồm: Tăng
huyết áp, đái tháo đường, suy thận mãn tính,
tăng lipid máu, bệnh lý mạch máu ngoại vi,
bệnh lý mạch máu não, hút thuốc lá, béo phì.
Tất cả các mẫu động mạch thu được sẽ cố
định trong dung dịch formol 5,25% từ 5 đến 7
ngày. Sau đó, chúng được khử nước, định hình
trong paraffin và được cắt vi phẫu với độ dày là
5 micromet. Chúng sẽ được nhuộm hematoxylin
eosin và Van- Gieson. Các tiêu bản được khảo
sát dưới kính hiển vi quang học.
Phân tích mô học:
Đếm số lượng các sợi đàn hồi trong lớp
trung mạc của động mạch để phân loại động
mạch. Tiêu chuẩn phân loại như sau:
Loại đàn hồi khi số lượng sợi đàn hồi lớn
hơn 8.
Loại hỗn hợp: số lượng sợi đàn hồi lớn hơn
5 và loại cơ khi giá trị này nhỏ hơn 5.
Đếm số lượng các khoảng hở của lớp màng
đáy động mạch.
Khảo sát bệnh lý học của động mạch tập
trung vào ba tổn thương: tăng sinh nội mạch, xơ
vữa động mạch và vôi hóa động mạch.
Tăng sinh nội mạc được xác định khi độ dày
của lớp nội mạc lớn hơn 20 micromet và chiếm
hơn ¼ chu vi của động mạch.
Tổn thương xơ vữa động mạch được xác
định khi có sự hiện diện của các tinh thể
cholesterol, các tế bào bọt, sự tích tụ các đại
thực bào. Tổn thương được phân loại theo
Hiệp hội Tim mạch và xơ vữa động mạch Hoa
Kỳ. Vôi hóa động mạch cũng được xác định
khi có sự hiện diện của các tinh thể canxi
trong lớp trung mạc.
Phân tích hình thể học
Đo lường các giá trị kích thước động mạch
bằng phần mềm (Image- Pro Plus version 6.2-
Medial- Cybernetics Inc). Các giá trị bao gồm:
chu vi trung mạc C (EEL), chu vi nội mạc C (EL),
chu vi màng đáy C (IEL), độ dày nội mạc, độ
dày trung mạc. Đường kính mạch máu, diện
tích trung mạc, diện tích nội mạc, diện tích
màng đáy được tính theo công thức:
Đường kính động mạch= C (EEL)/ л; diện
tích IEL= C2 (IEL)/ 4л;diện tích EL= C2 (EL)/4 л
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 365
Hình 1 : Minh họa cách xác định các giá trị hình thể học động mạch
Media: lớp trung mạc; Intima: lớp nội mạc; Lumen: Lòng mạch. Internal elastic lamina: lớp máng đáy- External
elastic lamina: giới hạn ngoại trung mạc- Adventitia: ngoại mạc- maximum width of intima: độ dày nhất nội
mạc. Width of media at maximal intimal thickness: độ dày của trung mạc tại vị trí nội mạc dày nhất. Diameter of
lumen + intima : đường kính lòng mạch + nội mạc
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tỉ
lệ độ dày của lớp nội mạc và độ dày của lớp
trung mạc tại vị trí nội mạc dày nhất để phân
loại mức độ tăng sinh nội mạc trong cùng một
loại động mạch. Theo tác giả Kobayashi và cộng
sự chia thành 4 mức tăng sinh nội mạc:
Độ 0: tỉ lệ này nhỏ hơn hoặc bằng 0,25; độ I:
tỉ lệ từ 0,25 đến 0,5; độ II: tỉ lệ là 0,5 đến 0,75; độ
III khi tỉ lệ lớn hơn 0,74 và độ IV khi tắc gần
hoàn toàn hay toàn bộ lòng động mạch do tăng
sinh nội mạc, xơ vữa động mạch, huyết khối.
Ngoài ra, giá trị phần trăm hẹp lòng mạch
máu (tỉ lệ phần trăm giữa diện tích nội mạc và
diện tích màng đáy cũng được sử dụng để so
sánh mức độ tăng sinh nội mạc giữa hai nhóm
động mạch khác nhau).
Các số liệu thu được sẽ được trình bày
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. Các biến
phân loại được so sánh bằng x2 test; biến liên
tục sử dụng student T test. Phân tích số liệu
bằng phần mềm SPSS 15.0. p<0,05 được xem là
có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Có tổng số 90 mẫu động mạch ngực trong
hai bên thu thập từ 54 bệnh nhân và 33 mẫu
động mạch vị mạc nối phải từ 33 bệnh nhân trải
qua phẫu thuật bắc cầu động mạch vành. Tuổi
trung bình trong nhóm động mạch ngực trong
là 67 tuổi (dao động từ 41 tuổi đến 86 tuổi) và ở
động mạch vị mạc nối phải trung bình là 68 tuổi
(44 tuổi – 83 tuổi).
Tần suất các yếu tố nguy cơ và bệnh lý đi
kèm được thể hiện trong bảng sau
Yếu tố nguy cơ-
bệnh lý
Động mạch ngực
trong(%)
Động mạch VMN(
%)
Tăng huyết áp 66,7 69,7
Suy thận mãn 26,7 36,4
Đái tháo đường 64,4 63,6
Bệnh mm ngoại vi 28,9 27,3
Tăng lipid máu 51,1 57,6
Bệnh mm não 15,6 15,2
Hút thuốc lá 54,4 63,6
Béo phì 4,4 6,1
Đánh giá mô học
Ở nhóm động mạch ngực trong hai bên, loại
đàn hồi được tìm thấy ở 15 mẫu (16,7%); 24,4%
loại hỗn hợp và 58,9% loại cơ. Có 3% trong tổng
số các mẫu động mạch vị mạc nối phải thuộc
loại đàn hồi và 9,1% thuộc loại hỗn hợp, phần
lớn các mẫu thuộc loại cơ chiếm tỉ lệ 87,9%.
Số lượng trung bình các khoảng hở ở lớp
màng đáy trong động mạch ngực trong là 31±17
(6-120) ít hơn ở động mạch vị mạc nối phải 41 ±
23 (12- 125) (p<0,02).
Phân tích hình thể các mẫu động mạch ghi
nhận như sau
Phân tích hình
thể
Động mạch ngực
trong (trung bình)
Động mạch
VMNP (trung
bình)
p
Độ dày trung
mạc (µm) 161,18 ± 59,29 177,69±62,73 >0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 366
Độ dày nội
mạc (µm) 65,59 ± 180,9
167,89±
303,58 <0,024
Chu vi trung
mạc (µm) 5.671,92± 1.466,69
6.472,21±
1.961,77 <0,034
Chu vi màng
đáy (µm) 4.679,42± 1248,59
5.406,7±
1.711,43 <0,041
Chu vi nội mạc
(µm) 4.445,39± 1.116,83
4.897,45±
1.433,98 <0,042
Đường kính
mạch máu
(mm)
1,81± 0,47 2,06±0,62 <0,016
Diện tích giới
hạn màng đáy
mm2
1,87± 1,07 2,55± 1,66 <0,05
Diện tích nội
mạc mm2 1,67± 0,86 2,07± 1,29 <0,05
Tỉ số diện tích
nội mạc và
trung mạc
0,92±0,11 0,85± 0,13 <0,01
Phân tích bệnh học của hai loại động mạch
ghi nhận như sau
Tăng sinh nội mạc được tìm thấy ở 47,8%
các mẫu động mạch ngực trong hai bên và
67,9% các mẫu động mạch vị mạc nối phải
(p<0,001).
Tỉ số độ dày nội mạc và độ dày lớp trung
mạc giúp xác định mức độ tăng sinh nội mạc
trong cùng một loại động mạch. Kết quả nghiên
cứu ghi nhận độ 0, I, II, III tương ứng với các tỉ
lệ: 62,2%; 17,7%; 7,7% và 12,4% ở nhóm động
mạch ngực trong hai bên. Nhóm động mạch vị
mạc nối phải, các giá trị này lần lượt là : 31,2%;
44,2%; 18,1% và 16,5%.
Tổn thương xơ vữa động mạch được tìm
thấy ở 1,1% các động mạch ngực trong hai bên
và 8,2% ở các động mạch vị mạc nối phải.
Vôi hóa động mạch chỉ tìm thấy ở 4,01% các
động mạch vị mạc nối phải.
So sánh mức độ ít tăng sinh nội mạc giữa
hai nhóm động mạch bằng cách sử dụng tỉ số
diện tích nội mạc và diện tích giới hạn bởi lớp
màng đáy nội mạc ghi nhận giá trị này ở nhóm
động mạch ngực trong hai bên là 0,92± 0,11 cao
hơn nhóm động mạch vị mạc nối phải là 0,85±
0,13 (p<0,01).
Phân tích các yếu tố nguy cơ và bệnh lý đi
kèm bao gồm tăng huyết áp, đái tháo đường
type 2, suy thận mãn, bệnh lý mạch máu
ngoại vi, bệnh lý mạch máu não, tăng lipid
máu, hút thuốc lá và béo phì lên bệnh học của
hai loại động mạch ghép này cho thấy chỉ có
tăng huyết áp ở các bệnh nhân có sử dụng
động mạch vị mạc nối phải là có liên quan
đến tình trạng tăng sinh nội mạc của động
mạch. Những yếu tố khác không có liên quan
đến bệnh học của động mạch này.
Nghiên cứu cũng không tìm thấy có mối
liên quan nào giữa các yếu tố nguy cơ, bệnh
lý đi kèm với bệnh học của động mạch ngực
trong hai bên.
BÀN LUẬN
Việc lựa chọn cầu nối và chiến thuật sử
dụng chúng đóng vai trò rất quan trọng quyết
định kết quả lâu dài của phẫu thuật bắc cầu
động mạch vành. Từ trước đến nay, các phẫu
thuật viên tim mạch thường sử dụng động mạch
ngực trong bên trái và tĩnh mạch hiển lớn để
làm cầu nối tái tưới máu hẹp mạch vành. Tuy
nhiên những năm gần đây, rất nhiều nghiên cứu
báo cáo rằng cầu nối bằng tĩnh mạch hiễn lớn bị
hẹp rất sớm sau phẫu thuật bởi sự tiến triển của
tình trạng tăng sinh nội mạc. Quá trình này dẫn
đến xơ vữa động mạch xảy ra từ năm thứ 5 sau
mỗ và hẹp thêm 5% mỗi năm tiếp theo sau đó.
Sau 10 năm sử dụng, có 41% đến 56% các cầu
nối bằng tĩnh mạch hiễn lớn sẽ bị tắc hẹp đáng
kể trong khi đối với động mạch ngực trong là
20%(12). Chính hiệu quả của việc sử dụng động
mạch ngực trong làm cầu nối và bất lợi của tĩnh
mạch hiễn, thúc đẩy các nhà ngoại khoa tim
mạch tìm kiếm những động mạch mới. Động
mạch vị mạc nối phải được nghiên cứu và sử
dụng với kết quả bước đầu rất tốt được xem là
một loại cầu nối động mạch giúp tái tưới máu
vành(7).
Trong nghiên cứu này, đánh giá mô học tập
trung vào các đặc tính: loại mô học động mạch,
tính toàn vẹn của lớp màng đáy, đường kính
trung bình của động mạch, độ dày của lớp nội
mạc và lớp trung mạc ở cả hai nhóm động
mạch. Nghiên cứu ghi nhận hơn 50% các động
mạch ngực trong hai bên và hầu như tất cả các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 367
động mạch vị mạc nối phải là loại mạch cơ.
Theo tác giả Van Son và cộng sự ghi nhận rằng
có rất nhiều tế bào cơ trong lớp trung mạc ở
động mạch vị mạc nối phải, nhưng rất ít trong
động mạch ngực trong(12,15). Barry và cộng sự
cũng tìm thấy động mạch ngực trong, giống
như động mạch chủ là loại mạch đàn hồi với lớp
trung mạc chứa rất ít tế bào sợi cơ, phần lớn là
sự hiện diện dày đặc các sợi đàn hồi(3). Marx và
các đồng nghiệp nghiên cứu trên 100 mẫu động
mạch ngực trong ghi nhận 52% loại đàn hồi, 22
% loại hỗn hợp và 26% loại cơ(8). Trong nghiên
cứu này, chúng tôi tìm thấy có sự khác biệt về
loại động mạch so với các nghiên cứu bên trên
có thể do đoạn động mạch chúng tôi khảo sát là
các đoạn xa của động mạch ngực trong trong
khi các nghiên cứu trên khảo sát toàn bộ chiều
dài động mạch. Điểm quan trọng trong kết quả
này là với số lượng động mạch cơ chiếm ưu thế
trong các động mạch ngực trong. Do đó chúng
ta cần lưu ý phải cắt lọc cho tốt ngay tại vị trí
mặt cắt trên động mạch này để nối vào mạch
vành hay dùng các thuốc dãn mạch vì tính co
thắt mạnh của loại động mạch cơ này.
Nhiều nghiên cứu ghi nhận tính toàn vẹn
của lớp màng đáy động mạch ngực trong tốt
hơn động mạch vị mạc nối phải. Kết luận này
được tìm thấy trong nghiên cứu của Malhotra
và cộng sự với sự liên quan giữa tính bền
vững của lớp màng đáy sẽ là yếu tố bảo vệ
chống lại quá trình xơ vữa động mạch(7). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy
số lượng các khoảng hở trong lớp màng đáy
của động mạch vị mạc nối phải nhiều hơn
động mạch ngực trong tương tự như trong
nghiên cứu của Tavilla và cộng sự(4,15) . Tác giả
Sim và đồng nghiệp báo cáo sự mất liên tục ở
lớp màng đáy động mạch sẽ làm tăng sự xâm
nhập của các tế bào cơ từ lớp trung mạc vào
lớp nội mạc, sau đó các tế bào này biến đổi
chức năng thúc đẩy tăng sinh nội mạc và tiến
trình xơ vữa động mạch(11