Mở đầu: Bong gân dây chằng bên ngoài khớp cổ chân thường gặp do tai nạn thể thao hay tai nạn lưu thông.
Phẫu thuật khâu phục hồi hay tái tạo lại giải phẫu dây chằng này là điều mong đợi vì thế vấn đề quan trọng là
hiểu biết về giải phẫu chi tiết của phức hợp dây chằng bên ngoài cổ chân.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu.
Chúng tôi phẫu tích trên xác tươi khớp cổ chân từng lớp qua da đến mô mềm, thực hiện đo chiều dài,
chiều rộng của các thành phần dây chằng: sên mác trước, gót mác, sên mác sau. Đo khoảng cách từ nơi bám
giải phẫu xương mác, xương gót qua khớp dưới sên và đo góc chếch của các dây chằng trên mặt phẳng đứng
dọc. Đánh giá dấu hiệu ngăn kéo trước trong mất vững khớp cổ chân bằng khung căng bất động ngoài được
thực hiện khi dây chằng bên ngoài còn nguyên, khi lần lượt cắt bỏ dây chằng sên mác trước, dây chằng sên
mác sau, dây chằng mác gót.
Kết quả: Dây chằng sên mác trước có dạng dải bám từ đỉnh và bờ trước mắt cá ngoài bám xuống lồi củ
ngoài và bờ ngoài của xương sên. Chiều dài TB là 13,9 ± 2,1mm, chiều rộng là 11,2 ± 1,7mm. Dây chằng mác gót
từ đỉnh xương mác bám vào lồi củ mác của xương gót; chiều dài TB là20,4 ± 2,2mm chiều rộng TB là5,6 ±
1,3mm. Dây chằng sên mác sau từ từ đỉnh mắt cá ngoài bám vào lồi củ sau ngoài của xương sên. Chiều dài TB là
18,5 ± 1,1mm, chiều rộng TB là 6,6 ± 1,4mm. Nếu dây chằng sên mác trước bị cắt thì xương sên mất vững di lệch
ra trước, góc của xương sên không đổi. Nếu dây chằng sên mác trước và dây chằng mác gót bị cắt thì xương sên
mất vững di lệch ra trước, góc của xương sên bị nghiêng. Nếu dây chằng sên mác trước, dây chằng mác gót, dây
chằng sên mác sau bị cắt thì xương sên mất vững di lệch ra trước, góc của xương sên bị nghiêng rất nhiều.
Kết luận: Dây chằng bên ngoài khớp cổ chân lúc mổ có các điểm bám giải phẫu hằng định và gồm 3
thành phần chính dây chằng sên mác trước, dây chằng mác gót, dây chằng sên mác sau. Phẫu thuật khâu
phục hồi hay tái tạo dây chằng bên ngoài bị đứt do chấn thương phải phục hồi đúng giải phẫu. Nếu dây
chằng khâu rút ngắn quá căng hay mảnh ghép thay thế không giống giải phẫu thì gây ảnh hưởng đến cơ
sinh học khớp cổ chân và dưới sên.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu giải phẫu dây chằng bên ngoài khớp cổ chân trên xác tươi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 104
NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU DÂY CHẰNG BÊN NGOÀI KHỚP CỔ CHÂN
TRÊN XÁC TƯƠI
Trương Trí Hữu*,Lâm Quốc Na**
TÓM TẮT
Mở đầu: Bong gân dây chằng bên ngoài khớp cổ chân thường gặp do tai nạn thể thao hay tai nạn lưu thông.
Phẫu thuật khâu phục hồi hay tái tạo lại giải phẫu dây chằng này là điều mong đợi vì thế vấn đề quan trọng là
hiểu biết về giải phẫu chi tiết của phức hợp dây chằng bên ngoài cổ chân.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu.
Chúng tôi phẫu tích trên xác tươi khớp cổ chân từng lớp qua da đến mô mềm, thực hiện đo chiều dài,
chiều rộng của các thành phần dây chằng: sên mác trước, gót mác, sên mác sau. Đo khoảng cách từ nơi bám
giải phẫu xương mác, xương gót qua khớp dưới sên và đo góc chếch của các dây chằng trên mặt phẳng đứng
dọc. Đánh giá dấu hiệu ngăn kéo trước trong mất vững khớp cổ chân bằng khung căng bất động ngoài được
thực hiện khi dây chằng bên ngoài còn nguyên, khi lần lượt cắt bỏ dây chằng sên mác trước, dây chằng sên
mác sau, dây chằng mác gót.
Kết quả: Dây chằng sên mác trước có dạng dải bám từ đỉnh và bờ trước mắt cá ngoài bám xuống lồi củ
ngoài và bờ ngoài của xương sên. Chiều dài TB là 13,9 ± 2,1mm, chiều rộng là 11,2 ± 1,7mm. Dây chằng mác gót
từ đỉnh xương mác bám vào lồi củ mác của xương gót; chiều dài TB là20,4 ± 2,2mm chiều rộng TB là5,6 ±
1,3mm. Dây chằng sên mác sau từ từ đỉnh mắt cá ngoài bám vào lồi củ sau ngoài của xương sên. Chiều dài TB là
18,5 ± 1,1mm, chiều rộng TB là 6,6 ± 1,4mm. Nếu dây chằng sên mác trước bị cắt thì xương sên mất vững di lệch
ra trước, góc của xương sên không đổi. Nếu dây chằng sên mác trước và dây chằng mác gót bị cắt thì xương sên
mất vững di lệch ra trước, góc của xương sên bị nghiêng. Nếu dây chằng sên mác trước, dây chằng mác gót, dây
chằng sên mác sau bị cắt thì xương sên mất vững di lệch ra trước, góc của xương sên bị nghiêng rất nhiều.
Kết luận: Dây chằng bên ngoài khớp cổ chân lúc mổ có các điểm bám giải phẫu hằng định và gồm 3
thành phần chính dây chằng sên mác trước, dây chằng mác gót, dây chằng sên mác sau. Phẫu thuật khâu
phục hồi hay tái tạo dây chằng bên ngoài bị đứt do chấn thương phải phục hồi đúng giải phẫu. Nếu dây
chằng khâu rút ngắn quá căng hay mảnh ghép thay thế không giống giải phẫu thì gây ảnh hưởng đến cơ
sinh học khớp cổ chân và dưới sên.
Từ khóa: Dây chằng bên ngoài khớp cổ chân, dây chằng sên mác trước, dây chằng mác gót, dây chằng sên
mác sau.
ABSTRACT
STUDY OF THE ANATOMY OF THELATERAL ANKLE LIGAMENTS
IN FRESH CADAVERIC
Trương Tri Huu, Lam Quoc Na
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 104 - 110
Introduction: Lateral ankle sprains are common sports injuries, traffic accidents. Anatomic repair or
reconstruction is desired therefore, it is important to be aware of the detailed anatomy of the lateral ligament ankle
complex.
* Khoa Chi dưới Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM ** Bệnh viện đa khoa Thanh Vũ Medic
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trương Trí Hữu ĐT: 0918591576 Email:truongtrihuu08@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 105
Methods: Prospective descriptive study. We dissected fresh cadaveric ankles free of skin and soft tissue and
made the following measurements: length, widthof the anterior talofibular ligament (ATFL), and the areas ofthe
attachments on the fibula, talus, calcaneus. The same measurements were made of the calcaneofibular (CFL) and
posterior talofibular ligaments (PTFL). The distance of the calcaneofibular calcaneal attachments from the subtalar
joint as well as the angle in the sagittal plane with the fibula was determined. We evaluated the anterolateral
drawer test by external frame device for ankle instability. Specimens were assigned into three groups: intact
ligaments, ATFL-cut,PTFL cut,CFL-cut.
Results: The banded anterior talofibular ligament originatedfrom the inferior tip of the lateral malleolus at
the anterior fibular border and inserted superior to the apex of the lateral talar process along the anterior border of
the talar lateral articular facet. It has the average length of 13.9 ± 2.1mm and the average width 11.2 ± 1.7mm.
The calcaneofibular ligament originated from the inferior tip of the lateral malleolus at the anterior fibular border
and inserted to the posterior point of the peroneal tubercle of calcaneus. It has the average length of 20.4 ± 2.2mm
and the average width 5.6 ± 1.3mm. The banded posterior talofibular ligament was originated from the inferior tip
of the lateral malleolus in the digital fossa to insert into the talar posterolateral tubercle. It has the average length
of 18.5 ± 1.1mm and the average width 6.6 ± 1.4mm. If the ATFL is cut, the talar is displaced anteriorly, Talar tilt
angle is not changed. If ATFL and CFL are cut, the talar is displaced anteriorly and Talar tilt angle is declined. If
ATFL, PTFL, CFL are cut Talar tilt angle is displaced more anteriorly and the angle of talus is declined very
much.
Conclusion: The ankle lateral ligaments related to surgically pertinent osseous landmarks composes the
anterior talofibular ligament, calcaneofibular ligament, posterior talofibular ligament. Surgical repair or
reconstruction of traumatized collateral ligaments must be done anatomicallybecause any undue foreshortening of
the ligaments or non anatomic graft may effect the biomechanics ofthe ankle or subtalar joints, or both.
Keywords: Lateral ankle ligaments, the anterior talofibular ligament (ATFL), the calcaneofibular (CFL) and
posterior talofibular ligaments (PTFL).
MỞ ĐẦU
Tổn thương dây chằng khớp cổ chân
(TTDCKCC) là chấn thương phổ biến chiếm 25%
trong tất cả chấn thương thể thao(6,11) và trong số
các chấn thương vùng cổ chân có 85% là tổn
thương dây chằng, trong đó tổn thương chủ yếu
dây chằng bên ngoài chiếm 80% - 85%(3,4). Mỗi
ngày có khoảng 23000 trường hợp TTDCKCC ở
Mỹ, 8200 trường hợp tại Anh(3,7) tại Việt Nam vấn
đề này chưa được công bố.
Trong số những trường hợp tổn thương dây
chằng bên ngoài có khoảng 20% bỏ quên không
điều trị diễn tiến đến mất vững khớp cổ chân
mãn tính (MVKCCMT)(8,9) nếu điều trị không
đúng tỉ lệ này có thể lên đến 40% và là nguyên
nhân gây thoái hóa khớp cổ chân sớm sau này(5).
Vì vậy việc xác định chính xác các đặc điểm giải
phẫu của dây chằng bên ngoài khớp cổ chân để
ứng dụng trong điều trị bằng phẫu thuật khâu
phục hồi hoặc tái tạo dây chằng bên ngoài là hết
sức quan trọng và cần thiết, đặc biệt tại nước ta
khi mà phẫu thuật về dây chằng vùng khớp cổ
chân chưa phổ biến.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định đặc điểm giải phẫu các thành phần
dây chằng bên ngoài của cổ chân và mối liên
quan của các dây chằng với các mốc giải phẫu
xương vùng cổ chân.
Khảo sát vai trò của dây chằng mác sên trước
và dây chằng mác gót trong mất vững bên ngoài
khớp cổ chân.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các mẫu cổ chân chân được cắt cụt từ 1/3
giữa cẳng chân trở lên ở những bệnh nhân bị tắc
hoặc động mạch đùi nông hoặc động mạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 106
khoeo do nguyên nhân chấn thương hoặc bệnh
lý của người Việt Nam tại Bệnh Viện Chợ Rẫy.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu mô tả cắt ngang. Cở
mẫu: 36 xác cổ chân tươi.
Các số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng
phần mềm SPSS 16.0
Dụng cụ thực hiện: Kính lúp phóng đại 3,5
lần, các dụng cụ phẫu tích cơ bản
Hình 1: Các dụng cụ phẫu tích
Bước 1: Phương pháp phẫu tích
Rạch da đường phía ngoài cổ chân đi qua
mắt cá ngoài khoảng 20cm đến xương bàn. Cô
lập gân cơ mác dài và mác ngắn ra sau, bộc lộ rõ
các bó của dây chằng bên ngoài, khớp chày sên
và khớp dưới sên.
Hình 2. Đường phẫu tích bộc lộ các dây chằng mác
sên trước
Bước 2: Phương pháp thu thập số liệu
Quan sát số bó (dải) của các dây chằng,
hướng đi, sự hiện diện của các dây chằng phụ
kèm theo. Xác định nguyên ủy, bám tận của
từng dây chằng. Đo chiều dài, chiều rộng của
từng dây chằng.
Hình 3.Dây chằng mác gót. Đo góc tạo bởi dây chằng
mác sên trước và dây chằng mác gót
Đo góc tạo bởi DCMST, DCMG với trục
xương mác, với mặt phẳng đứng dọc, với mặt
phẳng ngang, góc tạo bởi DCMST và DCMG ở
tư thế trung tính bằng cách gián tiếp qua thước
nhôm tạo hình.
Khảo sát ứng dụng
Dụng cụ thực hiện: Khung giữ cẳng chân.
Một đinh răng được bắt trực tiếp vào xương sên,
cây đinh răng này sẽ chạy tịnh tiến trên một
thước đo được đặt trên khung để đo độ di lệch
ra trước của xương sên khi dùng lực kéo khoảng
3kg kéo bàn chân ra trước. (test ngăn kéo trước).
Hình 4: Khung cặng giữ cổ chân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 107
Hình 5: Đo độ nghiêng xương sên tại thời điềm các
dây chằng bên ngoài
Dùng lực kéo lật ngửa bàn chân hướng vào
trong tối đa để đo độ nghiêng xương sên bằng
cách đo góc tạo bởi trần chày và xương sên.
Các số đo độ di lệch ra trước của xương sên,
độ nghiêng xương sên sẽ được ghi nhận ở các
thời điểm:
- Thời điểm 1: Khi các dây chằng bên ngoài
còn nguyên vẹn.
- Thời điểm 2: Sau khi đã cắt dây chằng mác
sên trước.
- Thời điểm 3: Khi đã cắt cả dây chằng mác
sên trước và dây chằng mác gót.
Đối với các trường hợp có sự hiện diện của
dây chằng phụ chúng tôi sẽ cắt các dây chằng
phụ cùng lúc với DCMG. (Thời điểm 3).
Đo kích thước diện bám các dây chằng trên
xương mác, xương sên và xương gót và mối liên
quan của tâm diện bám đến các mốc giải phẫu
lân cận.
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu về giải phẫu phức hợp dây
chằng bên ngoài khớp cổ chân trên 36 mẫu cổ
chân của người Việt Nam gồm 21 chân Trái và
15 chân Phải, tuổi từ 18 đến 95.
Các đặc điểm về hình dạng, hướng đi, số
dải,kích thước của các bó dây chằng
Hình dạng, hướng đi, số dải dây chằng
Dây chằng mác sên trước có dạng dải dẹt
mỏng trải dài từ phía trước dưới mắt cá ngoài
đến phủ phía trước ngoài cổ xương sên, dạng
hình thang với 2 cạnh trên dưới song song nhau,
cạnh trên lớn hơn cạnh dưới, dây chằng chạy
theo hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới,
từ ngoài vào trong, dây chằng tạo với trục dọc
xương mác một góc trung bình 840, tạo với mặt
phẳng dọc một góc trung bình 460, mặt phẳng
ngang một góc trung bình 29,30. Có 5/36 (14%)
trường hợp dây chằng sên mác trước gồm 2 dải
riêng biệt. Với hình dạng này ứng dụng trong
điều trị là phẫu thuật khâu dây chằng sẽ phù
hợp hơn là tái tạo dây chằng.
Dây chằng mác gót có gần giống dạng bó,
nếu cắt ngang dây chằng, dây chằng mác gót có
dạng hình bầu dục, dây chằng chạy theo hướng
từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, dây chằng
mác gót tạo với dây chằng sên mác trước một
góc trung bình 1360, tạo với trục xương mác một
góc trung bình 1400, với mặt phẳng dọc một góc
trung bình 440, với mặt phẳng ngang một góc
trung bình 460. Có 1/36 (2,7%) trường hợp dây
chằng mác gót có hai dây chằng riêng biệt. Với
hình dạng này trong điều trị phẫu thuật là có thể
khâu dây chằng hoặc tái tạo dây chằng.
Dây chằng mác sên sau có dạng dải dẹt hình
thang, các bó sợi của dây chằng mác sên sau
chạy theo hướng nằm ngang từ mặt sau trong
của mắt cá ngoài đến mặt sau ngoài xương sên.
Ứng dụng trong điều trị là phẫu thuật khâu dây
chằng sẽ phù hợp.
Kích thước
Chiều dài trung bình của dây chằng mác sên
trước là 13,9 ± 2,1mm.
Chiều rộng trung bình của dây chằng mác
sên trước là 11,2 ± 1,7mm.
Chiều dài trung bình của dây chằng mác gót
là 20,4 ± 2,2mm.
Chiều rộng trung bình của dây chằng mác
gót là 5,6 ± 1,3mm.
Chiều dài trung bình của dây chằng mác sên
sau là 18,5 ± 1,1mm.
Chiều rộng trung bình của dây chằng mác
sên sau là 6,6 ± 1,4mm.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 108
Chiều dài trung bình của dây chằng gót sên
ngoài là 21,3 ± 1,6mm.
Chiều rộng trung bình của dây chằng gót sên
ngoài là 4,9 ± 1,3mm.
Các đặc điểm về vị trí bám của dây chằng mác
sên trước và dây chằng mác gót trên mắt cá
ngoài, xương sên và xương gót
Trên mắt cá ngoài
Các diện bám trên mắt cá ngoài của dây
chằng mác sên trước và dây chằng mác gót đều
có dạng hình bầu dục. Đường kính trên dưới của
tâm diện bám dây chằng mác sên trước trên mắt
cá ngoài trung bình là 8 ± 0,5mm, đường kính
trong ngoài trung bình là 5,8 ± 0,7mm. Khoảng
cách từ tâm diện bám dây chằngmác sên trước
trên mắt cá ngoài đến bờ trước xương mác trung
bình là 15,5 ± 1,3mm, đến đầu dưới xương mác
trung bình là 11,7 ± 1,2mm.
Đường kính trên dưới của tâm diện bám dây
chằng mác gót trên mắt cá ngoài trung bình là
8,5 ± 1,3mm, đường kính trong ngoài trung bình
là 6,3 ± 0,7mm. Khoảng cách từ tâm diện bám
dây chằng mác gót trên mắt cá ngoài đến bờ
trước xương mác TBlà 14,7 ± 1,5mm, đến đầu
dưới xương mác TB là 9,8 ± 1,1mm.
Trên xương sên
Diện bám của dây chằng mác sên trước
trên xương sên có dạng hình bầu dục với
đường kính trên dưới lớn hơn đường kính
trong ngoài 1,5 lần.
Đường kính trên dưới của tâm diện bám dây
chằng mác sên trước trên xương sên trung bình
là 11 ± 1,4mm, đường kính trong ngoài trung
bình là 7,1 ± 1,1mm.
Khoảng cách từ tâm diện bám dây chằng
mác sên trước trên xương sên đến bờ trên khớp
dưới sên trung bình là 16,7 ± 1mm, đến mặt trên
xương sên trung bình là 10 ± 2,8mm.
Trên xương gót
Diện bám của dây chằng mác gót trên xương
gót trong nghiên cứu chúng tôi tương đối hằng
định và có dạng hình bầu dục.
Đường kính trên dưới của tâm diện bám dây
chằng mác gót trên xương gót trung bình là 10,5±
1,6mm, đường kính trong ngoài trung bình là 7,4
± 0,7mm.
Khoảng cách từ tâm diện bám dây chằng
mác gót trên xương gót đến bờ dưới khớp dưới
sên trung bình là 16,6 ±1mm.
Tóm lại xác định được các vị trí giải phẫu để
có thể cố định đúng vít neo chỉ để khâu lại dây
chằng.
Xác định độ mất vững bên ngoài khớp cổ chân
sau khi cắt dây chằng mác sên trước và sau khi
cắt cả dây chằng mác sên trước và dây chằng
mác gót
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
sau khi cắt dây chằng mác sên trước về độ
nghiêng của xương sên so với trước khi cắt bỏ
dây chằng sên mác trước, tuy nhiên sự di lệch ra
trước của xương sên khác biệt có ý nghĩa.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cả về độ
nghiêng xương sên cũng như sự di lệch ra trước
của xương sên sau khi cắt cả dây chằng mác sên
trước và dây chằng mác gót so với khi hai dây
chằng còn nguyên vẹn.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ di
lệch ra trước của xương sên và độ nghiêng
xương sên giữa cắt dây chằng mác sên trước và
sau khi cắt cả hai dây chằng mác sên trước và
dây chằng mác gót.
Tóm lại ba bó dây chằng đều quan trọng giữ
vững khớp cổ chân cần phải chẩn đoán chính
xác được bó nào bị đứt để khâu phục hồi.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này mô tả các dây chằng chính
bên ngoài cổ chân hằng định bao gồm 3 dây
chằng là DCMST, DCMG và DCMSS(10) giống các
tác giả khác như:
Siegler (1988)(13) mô tả chi tiết về kích thước
các dây chằng bên ngoài trên 20 xác cổ chân với
kết quả DCMST dài 14,76 – 20,9mm, DCMG dài
từ 24,39 – 30,99mm, DCSMS dài 17,3 – 25,02mm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 109
Sarrafian (1993)(13) DCMST gồm hai dải riêng
biệt trong tất cả các trường hợp, dải trên lớn hơn
dải dưới, chiều dài trung bình là 16,1 – 19,6mm.
Burks và Morgan (1994)(1) nghiên cứu trên 39
xác cổ chân cho thấy chiều dài trung bình
DCMST 24,8mm, DCMG 35,8mm, DCSMS
24,1mm, góc tạo bởi DCSMT và trục xương mác
trung bình 44,80, góc tạo bởi DCMG và trục
xương mác trung bình 1330.
Milner và Soames (1998)(9) nghiên cứu giải
phẫu phức hợp dây chằng bên ngoài trên 40 xác
cổ chân, DCMST gồm hai hoặc ba dải trong 5
trường hợp, ngoài DCMST, DCMG, DCMSS còn
có sự hiện diện của 2 dây chằng phụ là dây
chằng gian mắt cá sau 29 trường hợp và dây
chằng sên gót ngoài 22 trường hợp trong 40 mẫu
nghiên cứu. Chiều dài ở tư thế trung tính của
DCMST là 9,1 – 16,9mm, DCMG 15,6 – 23,4mm,
DCMSS 16 – 30mm.
Taser (2006)(15) nghiên cứu trên 42 xác cổ chân
ngoài mô tả chi tiết kích thước của dây chằng
bên ngoài ông còn đo góc tạo bởi DCSMT và
DCMG điều này có ý quan trọng trong các
trường hợp đứt cả DCSMT và DCMG cần tái tạo
cả hai, góc tạo bởi DCSMT và DCMG trung bình
là 1320, ngoài ra tác giả còn nghiên cứu mối liên
quan của tâm diện bám dây chằng với các mốc
xương lân cận để giúp cho việc chẩn đoán các
tổn thương dây chằng cũng như trong việc phẫu
thuật tái tạo các dây chằng này.
Raheem (2011)(12) nghiên cứu trên 20 xác cổ
chân, tác giả đo kích thước các dây chằng bên
ngoài trong các tư thế trung tính, bàn chân
gấp tối đa và duỗi tối đa, có 1 trường hợp
trong nghiên cứu của Raheem không thấy sự
hiện diện của DCMST, có 5 trường hợp
DCMST gồm hai dải, các trường hợp còn lại
DCMST có một dải.
Yildiz (2013)(16) nghiên cứu trên 45 xác cổ
chân, tác giả đo chiều dài các dây chằng bằng
cách đo khoảng cách tại 2 điểm dài nhất và 2
điểm ngắn nhất ở mỗi dây chằng, trong nghiên
cứu của ông có 11 trường hợp DCSMT gồm hai
dải, góc tạo bởi DCSMT và DCMG trung bình
1120.
KẾT LUẬN
Các thành phần dây chằng bên ngoài gồm ba
phần chính: dây chằng mác sên trước, dây chằng
mác gót, dây chằng mác sên sau. Cả ba bó dây
chằng đều quan trọng giữ vững khớp cổ chân
cần phải chẩn đoán chính xác được bó nào bị đứt
để khâu phục hồi. Hình dạng các bó đa phần là
các dải sợi nên cần chẩn đoán sớm đứt bó nào để
khâu phục hồi là điều trị thích hợp. Các trường
hợp chẩn đoán muộn cần tái tạo thì phải xem xét
chọn lựa mảnh ghép về hình dạng, lực mảnh
ghép để tái tạo đúng hướng theo vị trí giải phẫu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burks RT, Morgan J. (1994), Anatomy of the lateral ankle
ligaments. Am J Sports Med, 22(1): 72-77.
2. Colville MR (1998), Surgical treatment of the unstable ankle. J
Am Acad Orthop Surg, 6(6): 368-377.
3. Ferran NA, Maffulli N (2006), Epidemiology of sprains of the
lateral ankle ligament complex. Foot and ankle clinics, 11(3):
659.
4. Garrick JG (1977), The frequency of injury, mechanism of
injury, and epidemiology of ankle sprains. Am J Sports Med,
5(6): 241-242.
5. Harrington KD (1979), Degenerative arthritis of the ankle
secondary to long-standing lateral ligament instability. J Bone
Joint Surg Am, 61(3): 354-361.
6. Hockenbury RT, Sammarco GJ (2001), Evaluation and
treatment of ankle sprains: clinical recommendations for a
positive outcome. Phys Sportsmed, 29(2): 57-64.
7. Hupperets MD, Verhagen EA, van Mechelen W. (2009), Effect
of unsupervised home based proprioceptive training on
recurrences of ankle sprain: randomised controlled trial. BMJ,
339.
8. Kannus P, Renstrom P (1991), Current concepts review:
treatment for acute tears of the lateral ligaments of the ankle :
Operation, Cast, or Early Controlled Mobilization. J Bone Joint
Surg Am, 73(2): 305-312.
9. MilnerCE, SoamesRW (1998), Anatomy of the collateral
ligaments of the human ankle joint". Foot Ankle Int, 19(11):
757-760.
10. Nguyễn Quang Quyền (2012), Các Khớp Bàn Chân. Nguyễn
Quang Quyền. Bài Giảng giải phẫu học. Tập 1, Ấn bản lần
5.Tr. 151 - 155. Nhà Xuất Bản Y Học, TP. Hồ Chí Minh
11. Nguyễn Tiến Bình (2002), Chấn thương thể thao trong lứa
tuổi học đường. Tạp chí thông tin Y Dược, Số 9, Tr. 11 - 12.
12. Raheem OA, O'Brien M. (2011), Anatomical review of the
lateral collateral ligaments of the ankle: a cadaveric study.
Anat Sci Int, 86(4): 189-193.
13. Sarrafian S (1993). Syndesmology. In: Sarrafian S, ed.
Anatomy of the Foot and Ankle: Descriptive, Topographic,
Functional. Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins, 159-
217.
Nghiên cứu Y