Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 391
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA LEVOBUPIVACAINE TRONG GÂY TÊ 
TỦY SỐNG ĐỂ PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG 
Nguyễn Thỵ Quỳnh Lưu*, Nguyễn Văn Chừng** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Vào những năm gần đây, levobupivacaine, một hoạt chất đối phân S(-) thuần khiết của 
bupivacaine, xuất hiện như một lựa chọn an toàn hơn các chất đồng phân trong thực hành gây tê vùng. Các 
nghiên cứu dược lực học cho thấy nó có ái lực kém hơn cũng như mức độ ức chế các cơ quan trọng yếu như thần 
kinh trung ương và cơ tim yếu hơn bupivacaine. 
Mục tiêu: so sánh hiệu quả và tính an toàn của levobupivacaine đẳng trọng và bupivacaine đẳng trọng ở các 
bệnh nhân gây tê tủy sống liều 11 mg để phẫu thuật thay khớp háng. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm các bệnh nhân có ASA I – III, được lên 
chương trình mổ thay khớp háng bằng phương pháp gây tê tủy sống. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào 2 
nhóm, mỗi nhóm 45 người. Bệnh nhân ở nhóm L được gây tê với 11 mg levobupivacaine đẳng trọng 0,5%, bệnh 
nhân ở nhóm B được gây tê với 11 mg bupivacaine đẳng trọng 0,5%. Ghi nhận thời gian đạt phong bế cảm giác, 
thời gian kéo dài phong bế cảm giác, mức phong bế cảm giác cao nhất, thời gian đạt phong bế vận động, mức 
phong bế vận động, thời gian kéo dài phong bế vận động, các tác dụng phụ như chậm nhịp tim, tụt huyết áp, 
giảm oxy máu, lạnh run, nôn và buồn nôn. 
Kết quả: Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê về các thay đổi huyết động, thời gian đạt và 
kéo dài phong bế vận động / cảm giác. Có 2 bệnh nhân trong nhóm L chỉ đạt mức phong bế vận động tối đa là 
Bromage 2. 
Kết luận: 11 mg levobupivacaine đẳng trọng 0,5% có hiệu quả tương đương với 11 mg bupivacaine đẳng 
trọng 0,5% khi gây tê tủy sống để phẫu thuật thay khớp háng nhưng levobupivacaine ít làm suy yếu vận động 
hơn. 
Từ khóa: Gây tê tủy sống, thay khớp háng, levobupivacaine, bupivacaine. 
ABSTRACT 
THE EFFECT OF INTRATHECAL OF LEVOBUPIVACAINE ON HIP REPLACEMENT SURGERY 
Nguyen Thy Quynh Luu, Nguyen Van Chung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 391 - 397 
Background: In recent years levobupivacaine, the pure S (-)-enantiomer of bupivacaine, emerged as a safer 
alternative for regional anesthesia than its racemic parent. It demonstrated less affinity and strength of depressant 
effects onto myocardial and central nervous vital centers in pharmacodynamic studies. 
Objectives: The aim of our study was to compare the safety and efficacy of plain levobupivacaine 11 mg and 
plain bupivacaine 11 mg in patients undergoing hip replacement surgery under spinal anesthesia. 
Method: The study included hip replacement patients, ASA I – III, who were scheduled for elective surgery 
under spinal anesthesia. The cases were randomly divided into 2 groups of 45 patients each. Group L received 11 
mg 0.5% isobaric levobupivacaine, group B received 11 mg 0.5% isobaric bupivacaine. The onset and duration of 
sensory block, maximum upper spread of sensory block; onset, intensity and duration of motor block, any adverse 
* BV CTCH TP. Hồ Chí Minh ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thỵ Quỳnh Lưu ĐT: 0909 148 198 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 392
effects such as bradycardia, hypotension, hypoxia, tremor, nausea and/or vomiting were recorded. 
Results: There were no significant differences between the two groups in the haemodynamic changes, onset 
times and durations of sensory / motor blocks. Maximum motor block Bromage 2 was seen in two patients in 
group L. 
Conclusion: We concluded that the clinical efficacy of 11 mg 0.5% isobaric levobupivacaine was equal to the 
11 mg 0.5% isobaric bupivacaine in spinal anesthesia for hip replacement but levobupivacaine produced less 
motor block. 
Keywords: Spinal anesthesia, hip replacement, levobupivacaine, bupivacaine. 
MỞ ĐẦU – MỤC TIÊU 
Gãy cổ xương đùi là một tổn thương thường 
gặp ở người cao tuổi với tỷ lệ mắc phải đang 
tăng dần trong dân số. Thay khớp háng là phẫu 
thuật cắt bỏ các phần khớp háng hư hỏng, thay 
vào đó bằng 1 khớp nhân tạo nhằm tái tạo lại 
hình dạng và chức năng vốn có của khớp háng. 
Thay khớp háng có thể thực hiện với nhiều hình 
thức vô cảm khác nhau như gây mê toàn diện, 
gây tê tủy sống, gây tê ngoài màng cứng, gây tê 
đám rối thắt lưng và thường được sử dụng 
kết hợp các kỹ thuật. Không có chứng cứ về sự 
khác biệt tỷ lệ tử vong giữa các kỹ thuật. Tuy 
nhiên, gây tê vùng có các thuận lợi đáng kể hơn 
gây mê như giảm lượng máu mất trong quá 
trình phẫu thuật, giảm nhu cầu truyền máu, 
giảm tỷ lệ mắc phải thuyên tắc tĩnh mạch sâu và 
thuyên tắc phổi(6). 
Vào những năm gần đây, levobupivacaine, 
một hoạt chất đối phân S(-) thuần khiết của 
bupivacaine, xuất hiện như một lựa chọn an 
toàn hơn các chất đồng phân trong thực hành 
gây tê vùng(1). Các nghiên cứu dược lực học cho 
thấy nó có ái lực kém hơn cũng như mức độ ức 
chế các cơ quan trọng yếu như thần kinh trung 
ương và cơ tim yếu hơn bupivacaine. Tuy nhiên, 
sự phục hồi vận động nhanh chóng sau gây tê 
tủy sống với levobupivacaine rõ hơn với 
bupivacaine(2). Sell A và cộng sự khuyến cáo liều 
thuốc tê hữu dụng trong gây tê tủy sống của 
levobupivacaine là 11,7 mg(9). 
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu công 
bố về việc sử dụng levobupivacaine trong gây tê 
tủy sống, đặc biệt để phẫu thuật chỉnh hình. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Nghiên 
cứu hiệu quả của levobupivacaine trong gây tê 
tủy sống để phẫu thuật thay khớp háng” nhằm 
mục đích: 
Đánh giá hiệu quả: mức phong bế cảm giác, 
thời gian phong bế cảm giác, mức phong bế vận 
động, thời gian phong bế vận động. 
Đánh giá tính an toàn: thay đổi huyết động, 
SpO2, các tác dụng ngoài ý muốn của 
levobupivacaine đẳng trọng 0,5% so với 
bupivacaine đẳng trọng 0,5% trong gây tê tủy 
sống liều 11 mg để phẫu thuật thay khớp háng. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay khớp 
háng tại bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình 
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 
tháng 10 năm 2010 đến tháng 03 năm 2011 với 
các tiêu chuẩn: bệnh nhân đồng ý tham gia 
nghiên cứu, bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, ASA 
II, ASA III, bệnh nhân không có chống chỉ định 
gây tê tủy sống. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân 
bị dị ứng với thuốc tê, có yếu liệt chi dưới trước 
khi gây tê tủy sống hoặc có dị tật bất thường cột 
sống như vẹo, gù, xẹp đốt sống 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. 
 Chọn mẫu theo công thức tính cỡ mẫu: 
Trong đó: n là cỡ mẫu nghiên cứu, á: mức ý 
nghĩa hay xác suất sai lầm loại 1, α được chọn là 
5%, (1 - ): độ mạnh của nghiên cứu, được chọn 
là 80%, δp: phương sai gộp, µ: trị số trung bình 
cần kiểm định. Trong nghiên cứu giai đoạn đầu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 393
của chúng tôi trên 40 bệnh nhân, với cùng 
phương pháp tiến hành, thời gian tê trung bình 
của 2 nhóm nghiên cứu lần lượt là: nhóm L 
(nhóm dùng levobupivacaine): 246,79 ± 84,89 
phút, nhóm B (nhóm dùng bupivacaine): 251,89 
± 78,91 phút. Do đó: δp = 7,7; Z1 – α/2 = 1,96; Z1 -  = 
0,84; µ1 - µ2 = 5,1, n = 35,7. 
Cỡ mẫu tối thiểu tính được cho mỗi nhóm 
nghiên cứu là 36 bệnh nhân. Chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu trên 45 bệnh nhân cho mỗi 
nhóm, tổng cộng 2 nhóm là 90 bệnh nhân. 
Phương pháp phân nhóm: bệnh nhân thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu được phân nhóm ngẫu 
nhiên xen kẽ vào 2 nhóm nghiên cứu theo thứ tự 
thời gian vào phòng mổ: nhóm L: gây tê tủy 
sống bằng levobupivacaine, nhóm B: gây tê tủy 
sống bằng bupivacaine. 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân được tiền mê tại khoa vào tối 
trước mổ và sáng mổ với diazepam hay 
hydroxyzine (Atarax®). Khi đến phòng mổ: ghi 
nhận tri giác, đặt các điện cực theo dõi ECG, đo 
huyết áp động mạch không xâm lấn, SpO2. Đặt 
đường truyền tĩnh mạch ngoại biên bằng kim 
18G hay 20G, truyền tối thiểu 500 ml dịch NaCl 
0,9% trước khi thực hiện gây tê tủy sống. Tiến 
hành gây tê tủy sống ở tư thế ngồi. Chọc dò tủy 
sống với kim tê tủy sống 25G, tại khe liên đốt L4 
- L5, hút thêm 0,8 ml dịch não tủy. Thuốc tê bơm 
vào tủy sống, nhóm L: 11 mg levobupivacaine 
đẳng trọng 0,5%, nhóm B: 11 mg bupivacaine 
đẳng trọng 0,5%. Đặt thông tiểu. 
Sau khi đạt mức tê T10, nếu bệnh nhân còn 
cảm thấy lo lắng, bệnh nhân sẽ được tiền mê với 
midazolam 0,5 – 2 mg tiêm tĩnh mạch và cho thở 
oxy 2 lít/phút qua ống thông mũi 2 nhánh. Khi 
đạt được mức tê T10, bệnh nhân được đặt nằm 
nghiêng 90o theo yêu cầu phẫu thuật, chân cần 
phẫu thuật thay khớp háng phía trên. Tiến hành 
phẫu thuật. 
Trong lúc mổ, nếu xảy ra các tác dụng ngoài 
ý muốn thì xử trí như sau: tụt huyết áp: truyền 
dịch nhanh và tiêm tĩnh mạch ephedrine 2 mg. 
Nhịp tim chậm < 50 lần/phút: atropin 0,5 mg 
tiêm tĩnh mạch chậm. SpO2 < 93%: thở oxy 6 
lít/phút qua mask có túi dự trữ, nếu SpO2 tiếp 
tục giảm  90% thì xem như suy hô hấp và được 
đặt nội khí quản, thở máy. Lạnh run: ủ ấm, tiền 
mê với midazolam và fentanyl tùy theo đáp ứng 
của từng bệnh nhân. Buồn nôn, nôn: xử trí tùy 
nguyên nhân và mức độ đáp ứng của bệnh 
nhân: thở oxy 6 lít/phút qua mask có túi dự trữ, 
nâng huyết áp, có thể sử dụng: metoclopramide 
10 mg tiêm tĩnh mạch hoặc ondansetron 4 mg 
tiêm tĩnh mạch. 
Sau khi gây tê tủy sống 30 phút, nếu bệnh 
nhân chưa đạt được mức tê T10 thì bệnh nhân sẽ 
được gây mê để phẫu thuật: gây mê qua mặt nạ 
thanh quản nếu bệnh nhân có chỉ định thay 
khớp háng bán phần, gây mê qua nội khí quản 
nếu bệnh nhân có chỉ định thay khớp háng toàn 
phần. Sau khi gây mê xong, bệnh nhân được đặt 
nằm nghiêng 90o, chân cần phẫu thuật thay 
khớp háng phía trên. Tiến hành phẫu thuật. Sau 
khi mổ xong, bệnh nhân được đặt nằm ngửa trở 
lại và chuyển sang phòng hồi sức tiếp tục theo 
dõi. Đối với các bệnh nhân được gây mê trong 
mổ: bệnh nhân sẽ được rút ống nội khí quản 
hoặc mặt nạ thanh quản tại phòng hồi sức và 
cho thuốc giảm đau hậu phẫu ngay sau khi 
phẫu thuật kết thúc. 
Các chỉ số theo dõi: Tại phòng mổ, bệnh 
nhân được theo dõi: SpO2, điện tim liên tục 
trên monitor (chuyển đạo DII). Ghi nhận nhịp 
tim, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, 
SpO2 mỗi 2 phút trong 20 phút đầu sau gây 
tê, sau đó ghi nhận mỗi 5 phút cho đến thời 
điểm kết thúc phẫu thuật. Đánh giá và ghi 
nhận mức phong bế cảm giác đau bằng kim 
đầu tù mỗi 2 phút trong 30 phút đầu sau gây 
tê. Đánh giá và ghi nhận mức phong bế vận 
động dựa trên thang điểm Bromage mỗi 2 
phút trong 30 phút đầu sau gây tê (thang 
điểm Bromage: Bromage = 0: không liệt, có thể 
gập hông / gối / bàn chân, Bromage = 1: không 
thể gập hông, Bromage = 2: không thể gập 
gối, Bromage = 3: không thể cử động bất cứ 
phần nào của chân). Tại phòng hồi sức: ghi 
nhận nhịp tim, huyết áp tâm thu, huyết áp 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 394
tâm trương, SpO2 mỗi 30 phút đến khi bệnh 
nhân được cho thuốc giảm đau. Sử dụng 
thước đo điểm đau, theo thang điểm đau VAS 
(Visual Analog Scale) từ 0 đến 10 điểm để 
đánh giá mức độ đau của bệnh nhân sau mổ 
(0 điểm: không đau, từ 1 đến 3 điểm: đau ít, từ 
4 đến 5 điểm: đau vừa, từ 6 đến 7 điểm: đau 
nhiều, từ 8 đến 10 điểm: đau rất nhiều, không 
chịu được). Xác định mức độ đau vết mổ theo 
thang điểm VAS do bệnh nhân tự đánh giá 
mỗi 15 phút đến khi VAS  4 điểm. Ghi nhận 
thời điểm VAS  4 điểm. Đánh giá mức phong 
bế vận động dựa trên thang điểm Bromage 
mỗi 15 phút đến khi chỉ số Bromage = 0. Ghi 
nhận thời điểm chỉ số Bromage = 0. 
Định nghĩa các biến số: bệnh nhân được xem 
là tụt huyết áp khi huyết áp tâm thu giảm > 25% 
so với trị số lúc đầu. Bệnh nhân được xem là 
chậm nhịp tim khi nhịp tim < 50 lần/phút. Mức 
phong bế cảm giác cao nhất còn gọi là mức tê 
cao nhất: là mức liệt cảm giác cao nhất được 
đánh giá bằng kim đầu tù. Thời gian đạt phong 
bế cảm giác còn gọi là thời gian đạt mức tê cao 
nhất: là khoảng thời gian tính từ lúc tiêm thuốc 
tê xong đến khi đạt được mức tê cao nhất. Thời 
gian phong bế cảm giác còn gọi là thời gian tê: là 
khoảng thời gian tính từ lúc tiêm thuốc tê xong 
đến khi bệnh nhân có nhu cầu dùng thuốc giảm 
đau (VAS  4 điểm). Thời gian đạt phong bế vận 
động còn gọi là thời gian chỉ số Bromage = 3: là 
khoảng thời gian tính từ lúc tiêm thuốc tê xong 
đến khi chỉ số Bromage đạt 3 điểm. Thời gian 
phong bế vận động còn gọi là thời gian liệt vận 
động: là khoảng thời gian tính từ lúc tiêm thuốc 
tê xong đến khi bệnh nhân phục hồi vận động 
hoàn toàn (chỉ số Bromage = 0). Hiệu quả vô 
cảm trong phẫu thuật được đánh giá là tốt khi 
mức tê đạt đến T10 trong vòng 30 phút sau khi 
gây tê. Hiệu quả vô cảm trong phẫu thuật được 
đánh giá là thất bại khi mức tê chưa đạt đến T10 
sau 30 phút gây tê. 
Số liệu được thu thập bởi các điều dưỡng 
gây mê đã được huấn luyện cách thu thập 
số liệu. 
Kết quả được trình bày trong các bảng và 
biểu đồ dưới dạng các tần số, tỷ lệ đối với các 
biến số định tính; dưới dạng số trung bình ± độ 
lệch chuẩn đối với các biến số định lượng có 
phân phối chuẩn; dưới dạng trung vị, tứ phân vị 
đối với các biến số định lượng có phân phối 
không chuẩn. Nhập, xử lý và phân tích số liệu 
bằng phần mềm SPSS for Windows 16.0. Sử 
dụng phép kiểm chi bình phương, phép kiểm 
chính xác Fisher để so sánh 2 tỷ lệ; phép kiểm t 
để so sánh 2 số trung bình của các biến số định 
lượng có phân phối chuẩn và phép kiểm Mann 
– Whitney U để so sánh 2 số trung bình của các 
biến số định lượng có phân phối không chuẩn. 
Thống kê có ý nghĩa khi p  0,05. 
KẾT QUẢ 
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 45 bệnh 
nhân thuộc nhóm L và 45 bệnh nhân thuộc 
nhóm B. Trong nhóm L, có 1 bệnh nhân gây tê 
thất bại phải chuyển sang gây mê với mặt nạ 
thanh quản. Do đó, kết quả phân tích dựa trên 
89 bệnh nhân: 44 bệnh nhân nhóm L và 45 bệnh 
nhân nhóm B. 
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
 Nhóm L Nhóm B 
Số bệnh nhân 44 45 
Chiều cao (cm) 154,73 ± 6,36 153,87 ± 6,13 
Cân nặng (kg) 49,43 ± 7,11 48,27 ± 7,05 
Tuổi (năm) 70,32 ± 10,74 69,67 ± 11,77 
Nam / Nữ 6 / 38 5 / 40 
Trung bình ± độ lệch chuẩn 
Bảng 2: Hiệu quả gây tê giữa 2 nhóm 
 Nhóm L Nhóm B p 
Mức phong bế cảm giác cao 
nhất 
T8 (T10 – 
T6) 
T8 (T10 – 
T6) 
0,88 
Thời gian đạt mức phong bế 
cảm giác T10 (phút) 
18,11 ± 
6,38 
16,62 ± 
5,69 
0,25 
Thời gian đạt mức phong bế 
cảm giác cao nhất (phút) 
23,68 ± 
3,74 
22,82 ± 
4,26 
0,32 
Thời gian phong bế cảm giác 
(phút) 
270,80 ± 
83,46 
271,57 ± 
78,62 
0,96 
Thời gian đạt phong bế vận 
động (Bromage = 3) (phút) 
16,89 ± 
7,25 
16,67 ± 
6,30 
0,88 
Thời gian phong bế vận động 
(phút) 
156,63 ± 
57,69 
166,42 ± 
51,11 
0,40 
Tỷ lệ tụt huyết áp (%) 13,6 17,7 0,59 
Trung bình ± độ lệch chuẩn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 395
Đặc điểm của bệnh nhân trong 2 nhóm 
nghiên cứu được trình bày ở bảng 1. Đặc điểm 
gây tê giữa 2 nhóm được trình bày ở bảng 2. Sự 
khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống 
kê về mức phong bế cảm giác, thời gian phong 
bế cảm giác, thời gian phong bế vận động cũng 
như tỷ lệ tụt huyết áp giữa 2 nhóm. Tất cả các 
bệnh nhân trong nhóm B đều đạt mức phong bế 
vận động tối đa là Bromage 3. Có 2 bệnh nhân 
trong nhóm L chỉ đạt mức phong bế vận động 
tối đa là Bromage 2. 
Không có trường hợp nào chậm nhịp tim, 
giảm SpO2, lạnh run, run, buồn nôn, nôn trong 
và sau mổ. 
BÀN LUẬN 
Mức tê cao nhất đạt được ở 2 nhóm đều là 
T10 - T6, điều này chứng tỏ liều thuốc tê 11 mg, 
chọc dò tủy sống ở khe liên đốt L4 – L5 của 
chúng tôi phù hợp, đảm bảo đủ vô cảm để phẫu 
thuật thay khớp háng cho các bệnh nhân (bảng 
2). Theo nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, 
khi gây tê tủy sống với levobupivacaine đẳng 
trọng 0,5% và bupivacaine đẳng trọng 0,5% ở 
cùng khe liên đốt với cùng liều lượng thuốc tê, 
ghi nhận mức tê cao nhất đạt được ở 2 nhóm 
cũng tương tự nhau: 
Bảng 3: Mức tê cao nhất trong các nghiên cứu 
Tác giả 
Khe liên 
đốt 
Liều 
(mg) 
Mức tê cao nhất 
Nhóm L Nhóm B 
Vanna O và 
cs(10) 
L2 – L3 12,5 T4 T4 
Fattorini F và 
cs(3) 
L3 – L4 15 T4 T4 
Glaser C và cs(4) L2 – L3 17,5 T4 T4 
Chúng tôi L4 – L5 11 T6 T6 
Mức độ lan rộng của thuốc tê phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố khác nhau: vóc dáng bệnh nhân, vị 
trí tiêm thuốc, liều lượng thuốc tê, thể tích thuốc 
tê, tốc độ bơm thuốc tê, tư thế bệnh nhân sau khi 
tiêm thuốc. Do đó, mức tê cao nhất của bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi khác với 
mức tê cao nhất của bệnh nhân trong nghiên 
cứu của các tác giả khác. Thời gian từ lúc bơm 
thuốc tê đến lúc đạt mức vô cảm T10 ở 2 nhóm 
khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê 
(bảng 2). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự 
như của các tác giả trong và ngoài nước(010). 
Nguyễn Mạnh Hồng và cộng sự(08) khi gây tê tủy 
sống tại khe liên đốt L3 – L4, liều 10 mg với 
levobupivacaine đẳng trọng 0,5% ghi nhận thời 
gian đạt mức tê T10 là 5,82 ± 2,63 phút, nhanh 
hơn nhiều so với kết quả của chúng tôi. Như 
vậy, với lượng thuốc tê thấp mà hiệu quả gây tê 
đạt yêu cầu phẫu thuật thì chúng tôi nghĩ thời 
gian chờ thêm vài phút để đạt mức vô cảm cần 
thiết là điều có thể chấp nhận được. 
Bảng 4: Thời gian đạt mức tê cao nhất của các 
nghiên cứu (phút) 
Tác giả 
Nhóm L Nhóm B 
p 
TB ± ĐLC TB ± ĐLC 
Mehta A và cs(7) 4,38 ± 1,53 4,40 ± 1,81 0,876 
Fattorini F và cs(3) 12 ± 6 9 ± 5 > 0,05 
Glaser C và cs(4) 11 ± 6 13 ± 8 > 0,05 
Chúng tôi 23,68 ± 3,74 22,82 ± 4,26 0,32 
Theo bảng 4, thời gian đạt mức tê cao nhất 
của 2 nhóm gây tê tủy sống với levobupivacaine 
đẳng trọng 0,5% và bupivacaine đẳng trọng 
0,5% khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Kết 
quả của chúng tôi cũng không khác nhau giữa 2 
nhóm. Tuy nhiên, thời gian đạt mức tê cao nhất 
của chúng tôi chậm hơn so với kết quả của các 
tác giả trên có thể do chúng tôi sử dụng liều 
thuốc tê thấp hơn, gây tê ở khe liên đốt thấp 
hơn, bơm thuốc tê với tốc độ khác các tác giả 
trên nên thời gian đạt được mức tê cao nhất 
chậm hơn. 
Bảng 5: Thời gian tê của các nghiên cứu (phút) 
Tác giả 
Nhóm L Nhóm B 
p 
TB ± ĐLC TB ± ĐLC 
Mehta A và cs(7) 189,4 ± 42,9 175,76 ± 50,0 0,34 
Fattorini F và cs
(3)
 391 ± 96 381 ± 105 > 0,05 
Mantouvalou M và 
cs(5) 
230 ± 74 238 ± 88 > 0,05 
Glaser C và cs
(4)
 228 ± 77 237 ± 88 > 0,05 
Chúng tôi 271,57 ± 
78,62 
270,80 ± 
105,11 
0,97 
Mehta A và cộng sự gây tê tủy sống để phẫu 
thuật chi dưới. Fattorini F và cộng sự gây tê tủy 
sống để phẫu thuật chỉnh hình. Mantouvalou M 
và cộng sự gây tê tủy sống để phẫu thuật bụng 
dưới. Glaser C và cộng sự gây tê tủy sống để 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 396
phẫu thuật thay khớp háng. 
Bảng 5 cho thấy kết quả của chúng tôi cũng 
phù hợp với các tác giả khác: không có sự khác 
biệt về thời gian tê giữa 2 nhóm nghiên cứu 
dùng levobupivacaine và bupivacaine. Tuy 
nhiên, có sự khác nhau về thời gian tê giữa các 
nghiên cứu. Điều này có thể do: mặc dù tác giả 
Glaser C và chúng tôi nghiên cứu trên cùng một 
loại phẫu thuật là thay khớp háng nhưng với 
liều lượng thuốc tê, vị trí tiêm thuốc tê, tốc độ 
bơm thuốc tê, tư thế bệnh nhân sau khi tiêm 
thuốc tê, thể trạng bệnh nhân đều khác nhau 
thì mức tê cao nhất đạt được sẽ khác nhau làm 
cho thời gian tê cũng khác nhau. Do đó, các 
nghiên cứu khác nhau có kết quả không giống 
nhau là điều chắc chắn. 
Bảng 6: Thời gian đạt phong bế vận động của các 
nghiên cứu