Ô nhiễm chất dinh dưỡng từ hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là hoạt động nuôi cá trá
tại tỉnh An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung đang gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường nước và sinh hoạt của người dân tại vùng nuôi. Từ
những thực tế trên, việc nghiên cứu một mô hình nuôi khép kín với những nguyên liệu sẵn có,
rẻ tiền là điều rất cần thiết. Nghiên cứu tập trung vào 2 mục tiêu chính: (1) đánh giá chất
lượng nước ao nuôi cá tra thâm canh và mức độ ô nhiễm do hiện trạng xả nước thải từ ao
nuôi cá tra ra sông, kênh rạch tại địa phương, (2) lập mô hình xử lý nước bằng phương pháp
nuôi sinh khối Moina (trứng nước) kết hợp lọc sinh học bằng lục bình và so sánh nước thải
được xử lý bằng chế phẩm sinh học và tìm ra phương pháp xử lý tối ưu nhất. Đây là cơ sở để
triển khai và áp dụng thực tế mô hình ao nuôi cá tra thâm canh với mô hình xử lý nước khép
kín ở đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh khác có điều kiện nuôi cá tra tương tự.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 10/06/2022 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mô hình xử lý nước thải khép kín dùng cho nuôi cá tra theo quy mô hộ gia đình tại tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
535
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH XỬ LÝ NƯỚC THẢI KHÉP KÍN DÙNG CHO
NUÔI CÁ TRA THEO QUY MÔ HỘ GIA ĐÌNH TẠI TỈNH AN GIANG
Nguyễn Thùy Dung*
Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên lạc: thuydungnguyen.hutech@gmail.com
TÓM TẮT
Ô nhiễm chất dinh dưỡng từ hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là hoạt động nuôi cá trá
tại tỉnh An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung đang gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường nước và sinh hoạt của người dân tại vùng nuôi. Từ
những thực tế trên, việc nghiên cứu một mô hình nuôi khép kín với những nguyên liệu sẵn có,
rẻ tiền là điều rất cần thiết. Nghiên cứu tập trung vào 2 mục tiêu chính: (1) đánh giá chất
lượng nước ao nuôi cá tra thâm canh và mức độ ô nhiễm do hiện trạng xả nước thải từ ao
nuôi cá tra ra sông, kênh rạch tại địa phương, (2) lập mô hình xử lý nước bằng phương pháp
nuôi sinh khối Moina (trứng nước) kết hợp lọc sinh học bằng lục bình và so sánh nước thải
được xử lý bằng chế phẩm sinh học và tìm ra phương pháp xử lý tối ưu nhất. Đây là cơ sở để
triển khai và áp dụng thực tế mô hình ao nuôi cá tra thâm canh với mô hình xử lý nước khép
kín ở đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh khác có điều kiện nuôi cá tra tương tự.
Từ khóa: Xử lý nước thải, nuôi cá tra thâm canh, lọc sinh học, sinh khối moina, lục bình.
STUDY ON THE CLOSED WASTERWATER TREATMENT MODEL BASED ON
FAMILY SIZE IN AN GIANG PROVINCE
Nguyen Thuy Dung*
Ho Chi Minh City University of Technology, HUTECH
*Corresponding authour: thuydungnguyen.hutech@gmail.com
ABSTRACT
The nutrient pollution from aquaculture activities, especially the pangasius farming in An
Giang province in particular and the Mekong River Delta in general are seriously affecting
the aquatic environment. Activity of people in farming areas. From these facts, it is very
necessary to study a closed farming model with available, inexpensive materials. The study
focused on two main objectives: (1) assessing the quality of intensive Pangasius pond water
and the level of pollution caused by the discharge of wastewater from catfish ponds into local
rivers and canals; 2) Water treatment modeling using Moina biomass (water egg) combines
biofilter with water hyacinth and compares wastewater treated with bio-product and find the
optimal treatment method. . This is the basis for implementing and applying the model of
intensive Pangasius pond with closed water treatment model in Cuu Long river delta and
other provinces with similar Pangasius conditions.
Keywords: Waste water treatment, intensive catfish farming, biological filtration, moina
biomass, water hyacinth.
TỒNG QUAN
Tình trạng khai thác tài nguyên nước quá
mức, nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên và sử
dụng các phương pháp đánh bắt mang tính
hủy diệt, không bền vững, làm cho nguồn lợi
thủy sản trên thế giới ngày càng suy giảm và
có xu hướng cạn kiệt, đặc biệt một số loài hải
sản có giá trị kinh tế cao đã hoàn toàn biến
mất trong những năm gần đây. Mặt khác,
nhu cầu về thực phẩm thủy sản trên toàn cầu
vẫn tiếp tục gia tăng do dân số thế giới không
ngừng phát triển, mà nguồn thủy sản trong tự
nhiên thì không đủ để đáp ứng cho nhu cầu
đó. Chính vì thế, hoạt động nuôi trồng thủy
sản chính là nguồn cung cấp thực phẩm cho
tương lai. Ngoài ra, nuôi trồng thủy sản còn
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia và tạo sinh kế cho
hàng triệu lao động ở địa phương.
Với hệ thống kênh rạch chằng chịt với hơn
khoảng 600.000 ha diện tích nước mặt,
ĐBSCL là khu vực hoạt động nuôi thủy sản
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
536
sôi động, đặc biệt là nuôi tôm càng xanh, cá
tra, basa, vồ đém, hú, cá rô đồng trong đó,
cá tra được xem là mặt hàng chủ lực cho xuất
khẩu thủy sản hàng đầu của ĐBSCL và cả
nước. Nghề nuôi cá tra được bắt đầu từ
những năm cuối thập niên 90. Do thổ nhưỡng
thuận lợi kèm theo đặc tính dễ nuôi, tại Châu
Đốc trong 7 năm từ 1998 đến 2004 đã hình
thành hơn 3.000 bè nuôi cá tra. Đến năm
2006, số bè tăng vọt lên 4.600 chiếc.
Theo ước tính cứ sản xuất ra 1kg cá tra thì
thải ra môi trường 25,2 g nitơ và 12,6 g
photpho. Theo quy hoạch phát triển đến năm
2020 sản lượng cá tra nuôi tại ĐBSCL sẽ là
1.850.000 tấn thì lượng chất thải tương ứng
là 2.368.000 tấn hữu cơ, trong đó có 93.240
tấn nitơ; 19.536 tấn photpho và 651.200 tấn
BOD. Với lượng thải trên nếu không có giải
pháp xử lý kịp thời sẽ dẫn hết hậu quả
nghiêm trọng cho môi trường nuôi cá và cả
môi trường nước tại vùng ĐBSCL. Vì vậy,
bên cạnh phát triển nghề nuôi cá tra, việc giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường nuôi rất
cần thiết cho việc phát triển nền nông nghiệp
bền vững trong tương lai.
Từ những thực tế như trên, việc lựa chọn một
phương pháp xử lý nước thải với chi phí
thấp, phù hợp cho các hộ gia đình là điều rất
cần thiết. Vì vậy, việc tiến hành thực hiện đề
tài “Nghiên cứu mô hình xử lý nước thải
khép kín dùng cho nuôi cá tra theo qui mô hộ
gia đình tài tỉnh An Giang” . Nhằm đảm bảo
lượng chất thải được xử lý theo đúng QCVN,
góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường
xung quanh, đảm bảo mỹ quan môi trường.
Hình 1. Vị trí địa lí tỉnh An Giang
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Vật liệu
Cá tra: Cá tra giống 10g/con được mua từ trại
cá giống và thả vào ao nuôi thí nghiệm với
mật độ 40 con/m2. Cá được cho ăn bằng thức
ăn viên công nghiệp 2 lần/ ngày theo nhu cầu
của cá. Cá đều cỡ, không xây xát, dị hình,
được chọn lựa cẩn thận trước khi cho vào mô
hình thí nghiệm.
Trứng nước: Trứng nước được mua từ hộ
nuôi Trần Công Lĩnh tại địa phương, 50g
(mật độ 20 ct/lít).
Lục bình: Thu thập từ kênh Mương Khai
Lấp, chọn cây con, chiều dài từ cuốn lá đến
đỉnh lá khoảng 7 – 10cm, số lá trên mỗi cây
khoảng 3 – 4 lá. Chọn 4 cây không bị sâu
bệnh, loại bỏ phần lá hư, sau đó chuyển vào
bể kính ương dưỡng 1 tuần trước khi đưa vào
mô hình.
- Chế phẩm sinh học: Vi sinh xử lý nước thải
là quần thể vi sinh được nuôi cấy dạng lỏng
có hoạt tính cao, được thiết kế chuyên biệt
cho tất cả hệ thống nước thải công nghiệp và
đô thị. Vi sinh chứa hỗn hợp 12 chủng vi
sinh chọn lọc, với mật độ 387/450 triệu vi
sinh/ml
- Chuẩn bị mẫu nước nghiên cứu: Nước được
bơm trực tiếp từ ao nuôi cá tra thâm canh 4
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
537
tháng nuôi của hộ dân bên cạnh. Nước được
trộn đều, phân tích các chỉ tiêu hóa, lý trước
khi được bổ trí vào ao nuôi thí nghiệm.
Hình 2. Sơ đồ phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu bao gồm 2 nghiệm thức được
thực hiện song song.
Thí nghiệm 1: Mô hình nuôi cá tra khép kín
bằng phương pháp nuôi trứng nước kết hợp
lục bình để xử lý nước thải.
- Mục đích của thí nghiệm là tìm hiểu khả
năng xử lý nước thải từ ao nuôi cá bằng cách
dùng nước thải ao cá tra để nuôi trứng nước,
sau đó lọc sinh học bằng lục bình là tuần
hoàn lại ao nuôi, theo dõi các chỉ tiêu của
nước qua các bậc xử lý và tình trạng sống sót
của cá trong mô hình.
- Mô hình bao gồm 4 ao: 1ao nuôi cá, 1ao
nuôi trứng nước, 1ao thả lục bình và 1 ngăn
dự phòng.
Hình 3. Cấu tạo chi tiết mô hình 1
Hình 4. Bố trí mô hình 1 trên thực tế
Thí nghiệm 2: Dùng chế phẩm sinh học để
xử lý nước thải từ ao nuôi cá.
- Mục đích của thí nghiệm là so sánh hiệu
quả xử lý nước thải giữa hệ thống khép kín
và chế phẩm sinh học. Từ đó làm cơ sở
khuyến khích ứng dụng xử lý theo hướng
sinh học vào thực tiễn cho xử lý nước thải cá
tra thâm canh một cách hiệu quả nhất.
Khác với thí nghiệm 1, ở thí nghiệm này ta
chỉ cần 1 ngăn, sau đó dùng nước thải từ
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
538
ngăn 1 nuôi cá trong mô hình khép kín,
chuyển qua ngăn thí nghiệm và dùng chế
phẩm sinh học để xử lý.
Hình 5. Cấu tạo chi tiết mô hình 2
Đáng giá chất lượng nước thải tại ao nuôi cá tra thâm canh các hộ nuôi tại địa phương
Sau khi phân tích hàm lượng của 8 chỉ tiêu
và so sánh với QCVN 02-
20:2016/BNNPTNT có thể thấy ngoại trừ 3
chỉ tiêu T-N, T-P và Coliforms thì các chỉ
tiêu còn lại đều nằm trong TCCP, tuy nhiên
ta có thể thấy nồng độ các chỉ tiêu vẫn cao.
Tuy nhiên nếu so các chỉ tiêu với QCVN
40:2011/BTNMT về tiêu chuẩn thải công
nghiệp thì hầu hết các chỉ tiêu đều vượt khỏi
TCCP xả thải. Đặc biệt nồng độ Coliforms
vượt xa TCCP theo QCVN 02-
20:2016/BNNPTNT lần lượt là: hộ 1 gấp 18
lần TCCP, hộ 2 gấp 4.6 lần và cuối cùng hộ 3
ô nhiễm cao nhất gấp 86 lần so với TCCP.
Với lượng ô nhiễm trên nếu thải ra môi
trường sẽ gây ô nhiễm lây lan với các nguồn
tiếp nhận khác, ảnh hưởng đến chất lượng
nước tại các vùng lân cận và có thể mang
theo bệnh dịch từ các ao nuôi ra môi trường
bên ngoài. Do đó cần phải có biện pháp xử lý
nước thải ao nuôi cá tra thâm canh trước khi
thải ra môi trường bên ngoài là điều cần thiết
và cấp bách với hiện trạng diện tích ao nuôi
ngày càng tăng cao.
Bảng 1. Kết quả phân tích mẫu nước thải tại các hộ nuôi
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU NƯỚC TẠI CÁC HỘ NUÔI
Chỉ tiêu HỘ 1 HỘ 2 HỘ 3
QCVN 02-
20:2014/BNNPTNT
pH 7.2 7.18 8.85 5 – 9
TSS 52 60 84 100
COD 78 65 52 150
BOD5 (200C) 50 42 34 50
Amoni 10.9 12.6 0 5
Tổng P 13.7 16.8 0 4
Tổng N 7.13 6.5 0.406 20
Coliforms 9*10
4
2.3*10
4
4.3*10
5
5*10
3
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
539
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
So sánh hiệu quả xử lý nước thải của 2 mô
hình
Ở mô hình 1, bậc xử lý đầu tiên là dùng nước
thải để nuôi trứng nước, giai đoạn này trứng
nước dùng dưỡng chất trong nước thải ao
nuôi cá để phát triển sinh khối. Cụ thể ở chỉ
tiêu COD, BOD5, ở ngày thứ 15 đã giảm so
với hàm lượng ban đầu là do sinh khối trứng
nước tăng làm giảm mùn bả hữu cơ, vi tảo có
trong nước.
Ngoài ra hàm lượng tổng lân và tổng đạm
biến động ở giai đoạn này là do trứng nước
sử dụng thực vật phù du, mùn bã hữu cơ làm
thức ăn nên hạn chế sự phân hủy thực vật
phù du chết, mùn bã hữu cơ giải phóng 1
lượng lớn T-P và T-N vào môi trường. Bên
cạnh đó T-P cũng mất đi vào bùn đất. Ở giai
đoạn lọc bằng lục bình, lượng sinh khối của
lục bình cũng tăng tỉ lệ theo hàm lượng chất
thải giảm so với ban đầu. Do đặc tính từ bộ
rễ của lục bình, bộ rễ lớn với nhiều rễ nhỏ
mọc xung quanh có khả năng hấp thụ đạm và
kim loại nặng cao, là nơi cư trú của các loài
sinh vật phân hủy các hợp chất hữu cơ độc
hại trong nguồn nước ô nhiễm.
a) BOD5 b) Tổng lân c) Tổng coliforms
Hình 7. Hiệu suất xử lý các chỉ tiêu nước thải ở mô hình 1
Ở mô hình 2, khi sử dụng chế phẩm sinh học,
thời gian thí nghiệm ít đi 2 ngày, nhưng chất
lượng nước đầu ra vẫn tốt. Từ bảng có thể
thấy ở các chỉ tiêu TSS, COD và tổng lân,
hàm lượng các chỉ tiêu giảm nhiều hơn so
với mô hình 1. Tuy nhiên ở các chỉ tiêu
BOD5, tổng đạm, Coliforms thì chế phẩm
sinh học chưa xử lý tốt bằng mô hình nuôi
trứng nước kết hợp lọc bằng lục bình.
Tuy nhiên, chất lượng nước của cả 2 mô hình
đều đạt TCCP của QCVN 02-20: 2014/
BNNPTNT (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
cơ sở nuôi cá tra), QCVN 40:2011/BTNMT
cột A (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước
thải công nghiệp) ngoại trừ chỉ tiêu
Coliforms tuy đã giảm đáng kể nhưng vẫn
còn khá cao so với TCCP.
Bảng 2. So sánh sự khác biệt về hiệu quả làm giảm các chỉ tiêu nước thải tốt nhất giữa mô
hình 1 và mô hình 2
CHỈ TIÊU Trước xử lý Mô hình 1 Mô hình 2
TSS 64.67 32.33 26.33
COD 100.67 42 38.33
BOD5 64.67 27.33 28
Amoni 3.94 0 0
Tổng lân 7.68 0.69 0.64
Tổng đạm 5.16 1.02 1.09
Coliforms 11.43*105 1.65*105 1.98*105
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
540
a) Mô hình 1 b) Mô hình 2
Hình 8. Sự thay đổi của nước thải qua từng bậc xử lý của 2 thí nghiệm
So sánh hiệu quả kinh tế của 2 mô hình
Mô hình 1: Kết quả được tính dựa trên hộ
nuôi dùng ao nuôi trứng nước và thả lục bình
có diện tích 3000 m2. Mỗi vụ trứng nước
thường duy trì 15 ngày ố tiền mà hộ nuôi
thu hoạch 1 tháng khoảng tầm 15 - 30 triệu
nếu trứng nở nhiều kèm theo nắng tốt, và thu
nhập ít nhất là khoảng 5 triệu/ 1 tháng ( giá
tiền được tham khảo ở các hộ nuôi tại địa
phương). Sau mỗi 15 ngày lượng lục bình sẽ
tự nhân đôi do hấp thu các chất dinh dưỡng
từ quá trình lọc. Trung bình với 1000 m2 sẽ
cho ra 6 tấn lục bình tươi. Khi đó có thể thu
hoạch lục bình và bán cho các khu làm đồ
thủ công mỹ nghệ. 3000 m2 × 6 tấn = 18 tấn
(lục bình tươi)
Bán được 500.000 đ/tấn × 8 tấn = 9 triệu
đồng. Trừ hết các chi phí thuê nhân công ta
thu được khoảng 5 triệu đồng/tháng. Kết hợp
mỗi tháng từ 2 ao nuôi, ta thu được khoảng
35 triệu đồng.
Mô hình 2: Để xử lý 1 ao nuôi với diện tích
3000 m2 cần chi khoảng 152 triệu đồng. Chi
phí khá cao so với thí nghiệm 1.
Với phương pháp nuôi trứng nước kết hợp
lọc bằng lục bình, không chỉ giúp ta xử lý
nước thải từ ao nuôi cá tra thâm canh, còn
đem lại nguồn lợi kinh tế cao cho người nông
dân.
Hình 9. Sinh khối Moina (trứng nước) và lục bình thu được ở thí nghiệm
Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học Euréka lần thứ XIX năm 2017 Kỷ yếu khoa học
541
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Trong quá trình sinh trưởng của cá tra, nhu
cầu về thức ăn tăng theo thời gian nuôi. Điều
đó đồng nghĩa hàm lượng các chất ô nhiễm
có trong nước thải ao nuôi cá tra thâm canh
gia tăng đáng kể về cuối vụ nuôi. Nước thải
từ ao nuôi cá tra tại khu vực nghiên cứu
không được xử lý trước khi thải ra môi
trường bên ngoài, trong đó chỉ tiêu tổng lân,
đạm và coliforms đều có hàm lượng cao hơn
so với QCVN 02-20:2014/BNNPTNT (Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá tra).
Đặc biệt hàm lượng coliforms ở hộ nuôi cao
gấp 86 lần so với TCCP. Mức độ dưỡng chất
gây ô nhiễm trong nước thải cá Tra khá cao
so với TCCP.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy được
khả năng xử lý ô nhiễm nước thải ao nuôi ao
nuôi cá tra thâm canh bằng phương pháp
nuôi trứng nước kết hợp lọc bằng lục bình,
góp phần làm giảm thiểu những tác động xấu
của hoạt động nuôi cá tra đến chất lượng môi
trường nước mặt, giảm thiểu lượng nước thải
từ ao nuôi ra bên ngoài. Chất lượng nước sau
khi xử lý đạt tiêu chuẩn đầu ra QCVN 02-
20:2014/ BNNPTNT (Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về cơ sở nuôi cá tra), QCVN
40:2011/BTNMT, cột A (Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về nước thải công nghiệp) đồng thời
còn mang lại lợi ích kinh tế cao cho nông hộ.
Đây là cơ sở để triển khai và áp dụng thực tế
mô hình ao nuôi cá tra thâm canh với mô
hình xử lý nước khép kín ở đồng bằng sông
Cửu Long và các tỉnh khác có điều kiện nuôi
cá tra tương tự.
Đề nghị
- Đề tài cần thời gian nghiên cứu thêm để xử
lý lượng bùn thải từ quá trình nuôi, nghiên
cứu có hướng đến cách giải quyết sẽ bố trí 1
bãi lọc ngầm trồng cây để tối ưu lượng bùn
mà không phải thải ra môi trường bên ngoài.
- Xây dựng một số trạm quan trắc môi trường
nước tự động trên tuyến sông Tiền, sông
Hậu, kênh trục chính để kiểm soát và cảnh
báo chất lượng nôi trường cho các vùng sản
xuất cá tra tập trung lớn, dân sinh và các sản
xuất khác tác động liên quan
- Các hội nông dân ở các cấp, cần phải
thường xuyên được phổ cập, tập huấn, tuyên
truyền về các kĩ năng cũng như phương pháp
xử lý nước thải trong nuôi trồng thủy sản cho
các hộ nắm vững kiến thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẠM NGUYỄN HỒNG NGUYEN, 2007.
NUOI SINH KHỐI MOINA. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư thủy sản, Đại học Nông Lâm TP.HCM
CHAU MINH KHOI, NGUYỄN VAN CHI DUNG, CHAU THỊ NHIEN, 2012.
Khả năng xử lý ô nhiễm đạm, lân hữu cơ hòa tan trong nước thải ao nuôi cá tra của lục bình
(eichhorina crassipes) và cỏ vetiver (vetiver zizanioides). Tạp chí khoa học Trường đại
học Cần Thơ năm, trang 151-160.
HUỲNH TRƯỜNG GIANG, VU NGỌC ÚT, TRƯƠNG PHU QUỐC, 2008.
Biến động các yếu tố môi trường trong ao nuôi cá tra (P.hypophthalmus) thâm canh ở An
Giang. Tạp chí khoa học: Chuyên đề Thủy sản Đại học Cần Thơ trang 45-53.
LE THANH HUNG VA HUỲNH PHẠM VIỆT HUY, 2006.
Tình hình sử dụng thức ăn trong nuôi cá tra và basa khu vực ĐBSCL. Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, trang 144 – 151.
LE HOANG VIỆT VA NGUYỄN XUAN HOANG, 2004.
Xử lý nước thải bằng lục bình. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học (2) Đại học Cần Thơ, trang 91-
95.
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus Sauvage,
1878) trong ao – điều kiện đảm bảo vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực
phẩm. QCVN 02-20:2014/BNNPTNT
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp. QCVN 40:2011/BTNMT.