Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 74 
NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT HẠ MI BẰNG VẬT CHÊM TỰ THÂN 
TRONG ĐIỀU TRỊ CO RÚT MI TRÊN LIÊN QUAN TUYẾN GIÁP 
Võ Thị Bảo Châu*, Lê Minh Thông* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả ban đầu của phẫu thuật hạ mi bằng cách ghép sụn vành tai điều trị các bệnh 
nhân co rút mi trên liên quan tuyến giáp. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu quan sát hàng loạt 23 mắt được chẩn đoán co rút mi trên 
liên quan tuyến giáp mức độ vừa và nặng. Các bệnh nhân này được phẫu thuật hạ mi trên bằng phương pháp 
ghép sụn vành tai tự thân tại bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh. Số liệu được thu thập trước và sau mổ trong thời 
gian theo dõi trung bình là 6 tháng. 
Kết quả: Trong suốt khoảng thời gian theo dõi, hơn 90% triệu chứng trước mổ cải thiện: mi hạ tốt 
(95,65%); cải thiện hở mi (100%). Tồn tại co rút mi phía thái dương chỉ xảy ra trong 13.04%. Biến chứng viêm 
giác mạc chiếm 8,68%; không có trường hợp nào bị sụp mi hay thải ghép, chỉ có 1 trường hợp tái phát, chiếm tỉ lệ 
4,34%. 
Kết luận: Ghép sụn tai tự thân là một phẫu thuật an toàn và hiệu quả cao để điều trị co rút mi trên liên 
quan tuyến giáp. Phương pháp này đem lại kết quả tốt về thẩm mỹ và cải thiện đáng kể bệnh lý giác mạc do bệnh 
lý co rút mi gây ra. 
Từ khoá: co rút mi trên liên quan tuyến giáp, vật chêm tự thân. 
ABSTRACT 
STUDY ON THE SURGERY FOR TREATMENT THYROID RELATED UPPER EYELID 
RETRACTIONBY USING AUTOLOGOUS SPACERS 
Vo Thi Bao Chau, Le Minh Thong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 74 - 79 
Purpose: To review the outcome of upperlid lowering by using auricular cartilage as the spacer for thyroid-
related upper eyelid retraction. 
Methods: this was a case series study of 23 eyes which were diagnosed medium/severe graded thyroid-
related upper eyelid retraction. The patients were operated at Hochiminh Eye Hospital, using auricular cartilage 
as the spacer to lower upperlid. Data were collected before and during 6 months after the surgery. 
Result: More than 90% of preoperative symptoms improved: good upperlid lowering (95.65%), 
lagophthalmos improved(100%). There were 13.04% of eyes which remained lateral upper eyelid retraction. 
Complications were keratopathy (8.68%), graft extrusion (0%), ptosis (0%). Only 1 eye were recurrent (4.34%). 
Conclusion: Upperlid lowering by using auricular cartilage as the spacer is a safe and effective method to 
treat thyroid-related upper eyelid retraction. It brings good cosmetic results and improves keratopathy because of 
upperlid retraction. 
Keywords: thyroid related upper eyelid retraction, autologous spacer. 
*Bộ Môn Mắt, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Võ thị Bảo Châu ĐT: 0934850762 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 75
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Co rút mi trên được định nghĩa là sự nâng 
lên vượt khỏi vị trí bình thường của mi trên ở tư 
thế nhìn nguyên phát (bình thường, ở tư thế 
nhìn thẳng về phía trước, mí trên che cực trên 
giác mạc 2mm kể từ rìa 12h của giác mạc). Co 
rút mi trên có thể do nhiều nguyên nhân, trong 
đó, nguyên nhân thường nhất là do bệnh tuyến 
giáp. Trong bệnh lý co rút mi trên liên quan 
tuyến giáp, các yếu tố góp phần gây bệnh bao 
gồm cường hoạt giao cảm cơ Muller, xơ hóa, 
tăng hoạt của phức hợp cơ nâng mi thứ phát sau 
cường cơ trực dưới(4,5). Điều trị co rút mi trên 
không những cải thiện được khía cạnh thẩm mỹ 
của bệnh nhân, làm cho mắt họ không còn vẻ dữ 
dằn do trợn mi, mà còn bảo vệ được giác mạc 
của bệnh nhân. Phẫu thuật được lên đặt ra khi 
tình trạng bệnh ổn định, chức năng tuyến giáp 
của bệnh nhân bình thường và tình trạng co rút 
mi trên không thay đổi từ 6 tháng trở lên. 
Có nhiều phương pháp phẫu thuật được sử 
dụng để điều trị co rút mi trên(7,6,4). Các phương 
pháp tiếp cận theo lối trước gồm lùi cơ nâng mi 
có kèm hoặc không kèm chỉ cố định, rạch/cắt cơ 
Muller, mở cơ vùng rìa, rạch mí toàn phần từng 
bậc, và Z-plasty. Các phương pháp tiếp cận cơ 
Muller và cơ nâng mi theo lối sau (hay lối kết 
mạc) cũng đã được báo cáo và điều chỉnh. Các 
phương pháp này khá đa dạng về mức độ hiệu 
quả ban đầu và về sau dù bệnh nền (bệnh tuyến 
giáp) ổn định. Có giả thuyết cho rằng các 
phương pháp này tạo một chỗ khuyết ở mi trên, 
từ đó thúc đẩy quá trình lành vết thương gây 
xúc tiến cho sự co rút. Do đó, với một vật chêm 
được đặt giữa bề mặt cân cơ nâng mi và bờ trên 
sụn mi làm giá đỡ, tiến trình co rút này có thể 
được hạn chế. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá 
hiệu quả của phẫu thuật hạ mi trong bệnh lý co 
rút mi trên liên quan tuyến giáp bằng phương 
pháp ghép vật chêm là sụn vành tai – một vật 
liệu tự thân khá dễ lấy, ít gây biến chứng và biến 
dạng thẩm mỹ tại vị trí lấy sụn cũng như bản 
thân mảnh sụn ghép dẻo nhưng vẫn có độ cứng 
vừa đủ để duy trì hình dạng cũng như hiệu quả 
hạ mi sau ghép. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu 
trên 17 bệnh nhân độ tuổi từ 24 đến 72, gồm 8 
nam, 9 nữ với tổng số mắt là 23, gồm 9 mắt 
phải và 14 mắt trái. Trong số đó, 6 bệnh nhân 
được phẫu thuật 2 mắt, 11 bệnh nhân được 
phẫu thuật 1 mắt. 
Tiêu chuẩn lựa chọn gồm các bệnh nhân co 
rút mi trên liên quan tuyến giáp mức độ trung 
bình và nặng có mức độ co rút mi ổn định từ 6 
tháng trở lên với chức năng tuyến giáp ổn định. 
Phân loại mức độ co rút mi trên dựa theo 
MRD(2) 
- Co rút nhẹ: MRD ≤5mm. 
- Co rút trung bình: 5mm<MRD≤7mm. 
- Co rút nặng: MRD >7mm. 
Tất cả bệnh nhân đều được khám trước và 
sau phẫu thuật bởi cùng một người, được phẫu 
thuật bởi cùng một phẫu thuật viên. Bệnh sử về 
co rút mi trên được khai thác kỹ, ghi nhận cả 
những triệu chứng thường gặp của bệnh giác 
mạc do hở mi như: khô mắt, cảm giác kích thích, 
nóng rát, cộm, chảy nước mắt, nhìn mờ, sợ ánh 
sáng. Khám trước mổ đánh giá mức độ co rút mi 
trên, độ hở mi, tình trạng giác mạc và các biểu 
hiện mắt liên quan tuyến giáp khác, nếu có. 
Bệnh nhân được tiến hành làm xét nghiệm đánh 
giá chức năng tuyến giáp gồm fT3, fT4, TSH, 
TRAb; siêu âm tuyến giáp, siêu âm và CT scan 
hốc mắt đánh giá sự phì đại cơ trực và tình trạng 
thị thần kinh. Phẫu thuật hạ mí được tiến hành 
sau các phẫu thuật giải áp hốc mắt và chỉnh lé 
trong trường hợp bệnh nhân có chỉ định. 
Kỹ thuật mổ 
Các bệnh nhân được chia làm 2 lô ngẫu 
nhiên, cùng ghép sụn vành tai nhưng lô 1 tiếp 
cận theo lối trước (đường da) và lô 2 được tiếp 
cận qua lối sau (đường kết mạc). 
Lấy sụn sau tai 
- Gây tê dưới da mặt sau tai. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 76 
- Rạch da, bóc tách để lộ tấm sụn. 
- Dùng lưỡi dao 11 và kéo phẫu tích để lấy 
sụn theo kích thước: chiều dài 20mm x độ cao 
(độ lộ củng mạc + 3mm). 
- Khâu da sau tai với chỉ Silk 7.0. 
Kỹ thuật ghép sụn 
- Lật ngược mi trên. 
- Gây tê vào chỗ kết mạc cùng đồ. 
- Bóc tách kết mạc khỏi bờ trên sụn mi và 
khỏi cơ Muller về phía cùng đồ trên. 
- Dùng cặp kẹp phức hợp cân cơ và cơ 
Muller, cắt rời khỏi bờ trên sụn. 
- Khâu nối sụn tai chêm giữa sụn và phức 
hợp cân cơ-cơ Muller bằng chỉ Vicryl 6.0. 
- Khâu kết mạc trở lại bờ trên sụn mi để lót 
mặt trong của sụn ghép. 
Sau mổ, bệnh nhân được đánh giá lại sau 1 
tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng. Các điểm cần 
lưu ý khi tái khám bệnh nhân là: độ hạ của mi 
trên, mức độ hở mi, sự thuyên giảm của bệnh 
giác mạc hay các triệu chứng khác kèm theo 
trước mổ, biến chứng. Yếu tố thẩm mỹ như sự 
cân xứng giữa 2 mắt, độ cao nếp mí đôi và vị trí 
lấy sụn cũng được xem xét kỹ khi tái khám. Bờ 
mi được đánh giá chủ yếu dựa trên sự bảo toàn 
được bề cong bình thường hay không. Khi tái 
khám mảnh ghép, chú ý đến vấn đề mảnh ghép 
có bị thải hay co rút hay không. 
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả(4) 
* Đánh giá phục hồi chức năng che chở nhãn 
cầu: độ hạ mi sau mổ, từng thời điểm tái khám 
(1 tháng, 3 tháng, 6 tháng) và độ tái phát bằng trị 
số MRD (marginal reflex distance – khoảng cách 
điểm phản quang so với bờ mi). 
- Đạt yêu cầu: 3,5mm≤MRD≤5mm. 
- Thái quá: 2,5mm≤MRD<3,5mm. 
- Bất cập: MRD >5mm. 
* Đánh giá phục hồi thẩm mỹ với sự cân 
xứng bề cao khe mi 2 bên qua trị số dMRD (hiệu 
số sai biệt bề cao khe mi 2 bên): 
- Tốt: 0mm≤dMRD<1mm. 
- Hài lòng: 1mm≤dMRD<2mm. 
- Không đạt: dMRD ≥2mm. 
* Đánh giá triệu chứng thực thể giác mạc 
trước và sau mổ: bằng nghiệm pháp BUT 
(break-up time – thời gian phá vỡ phim nước 
mắt). 
Các số liệu được nhập bằng phần mềm 
Epidata, xử lý bằng Stata 10 và trình bày qua các 
bảng biểu. 
KẾT QUẢ 
17 bệnh nhân gồm 8 nam và 9 nữ với 23 
mắt bị co rút mi trên liên quan tuyến gíap mức 
độ trung bình (5mm < MRD ≤ 7mm) và nặng 
(MRD > 7mm) được mổ ghép sụn tai để hạ mi 
trên. 
Bảng 1: Đặc điểm chung của các bệnh nhân 
Bệnh 
nhân Tuổi Giới 
Mắt 
bệnh 
MRD 
(mm) 
Mức độ hở
củng mạc 
(mm) 
Hở mi 
(mm)
1 47 Nữ MP/MT 7,5/8,5 2,0/3,0 0/0 
2 28 Nữ MT 7 1,5 0 
3 46 Nam MP/MT 9,5/8,5 4,0/3,0 2,0/2,0
4 24 Nữ MT 8,5 3,0 0,5 
5 40 Nữ MP 6,5 1,0 1,0 
6 72 Nam MP/MT 9,5/11,5 4,0/6,0 2,0/2,0
7 28 Nam MP/MT 7,5/8,5 2,0/3,0 0/1,0 
8 35 Nam MT 8,5 3,0 2,0 
9 33 Nam MT 6,5 1,0 0 
10 57 Nữ MT 8,5 3,0 0 
11 48 Nữ MP 7,5 2,0 2,0 
12 57 Nữ MP/MT 6,5/7,5 1,0/2,0 0/0 
13 61 Nam MT 6,5 1,0 0 
14 34 Nam MT 8,5 3,0 0,5 
15 41 Nam MP 8,5 3,0 2,0 
16 42 Nữ MP/MT 9,5/9,5 4,0/4,0 4,0/4,0
17 31 Nữ MT 8,5 3,0 2,0 
Chú thích: MP: mắt phải; MT: mắt trái; MP/MT: bệnh 
2 mắt, thứ tự mức độ co rút mi, hở mi và lối mổ cũng 
theo thứ tự mắt phải/mắt trái. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 77
Hình 1: Mắt trái co rút mi trên liên quan tuyến 
giáp. Trái, trước mổ; Phải, sau khi mổ hạ mi ghép 
sụn tai 6 tháng. 
Bảng 2: Kết quả về chức năng che chở nhãn cầu 
1 tháng 3 tháng 6 tháng 
MRD 
N % N % N % 
Đạt yêu cầu 21 91,3 22 95,65 22 95,65 
Thái quá 2 8,7 0 0 0 0 
Bất cập 0 0 1 4,35 1 4,35 
Bảng 3: Kết quả về phục hồi thẩm mỹ 
1 tháng 3 tháng 6 tháng 
dMRD 
N % N % N % 
Tốt 23 100 22 95,65 22 95,65 
Hài lòng 0 0 0 0 0 0 
Không đạt 0 0 1 4,35 1 4,35 
Bảng 4: Những hạn chế còn tồn tại 6 tháng sau mổ 
Triệu chứng N % 
Hở mi nhẹ 0.5mm 
Có 4 17,39 
Không 19 82,61 
Nếp mi đôi cao, mi dày 
Có 10 43,48 
Không 13 56,52 
Bất thường bờ cong mi 
Có 3 13,04 
Không 20 86,96 
Co rút mi nhẹ phía thái dương 
Có 3 13,04 
Không 20 86,96 
Trong số 3 mắt còn co rút mi trên phía thái 
dương, có 2 mắt đã được chỉnh lại bằng cách 
phẫu thuật cắt bổ sung cánh cơ nâng mi phía 
thái dương, kết quả là cải thiện tốt được tình 
trạng này. 
BUT và các triệu chứng của bệnh giác mạc 
sau hở mi sau mổ đều cải thiện 100%. 
Bảng 5: Tóm tắt các biến chứng sau mổ 
Biến chứng N % 
Viêm+/-Loét giác mạc cực trên 2 8,69 
Viêm bờ mi 8 34,78 
U hạt viêm kết mạc 1 4,35 
Các biến chứng khác như: mất lông mi, khô 
mắt, thải ghép, vết thương chậm lành hay không 
lành, biến chứng tại nơi lấy sụn ghép không 
được ghi nhận trong thời gian theo dõi (6 tháng 
kế từ khi mổ). Vùng tai nơi lấy sụn lành tốt, 
không gây than phiền gì cho bệnh nhân về mặt 
chức năng và thẩm mỹ. 
Khi khảo sát mối tương quan giữa kích 
thước mảnh sụn ghép và mức độ mi hạ được 
sau 6 tháng, ta có hệ số tương quan giữa 2 biến 
là 0,8463 (p<0,0001). 
Phương trình hồi quy: 
Mức độ hạ mi (mm) = -0,148 + 0,750 * kích 
thước sụn ghép (mm). 
BÀN LUẬN 
Dù là biểu hiện đơn lẻ hay đi kèm lồi mắt, co 
rút mi dưới thì co rút mi trên liên quan tuyến 
giáp vẫn gây ảnh hưởng đáng kể đến thẩm mỹ 
và chức năng che chở giác mạc. Có nhiều 
phương pháp phẫu thuật điều trị cho tình trạng 
co rút mi trên tùy vào mức độ nặng, bệnh kèm 
theo, giai đoạn bệnh hốc mắt liên quan tuyến 
giáp. Các phương pháp kinh điển như: lùi cơ 
nâng mi có kèm hoặc không kèm chỉ cố định, 
rạch/cắt cơ Muller, mở cơ vùng rìa, rạch mí toàn 
phần từng bậc, và Z-plasty đã được tiến hành 
trong thời gian khá dài bởi chứng minh được 
tính hiệu quả trong các trường hợp co rút mi 
trên mức độ nhẹ và vừa. Riêng đối với các 
trường hợp co rút nặng, hiệu quả các phương 
pháp này vẫn chưa được ủng hộ. Nhiều ý kiến 
cho rằng các phương pháp này tạo một chỗ 
khuyết ở mi trên, từ đó thúc đẩy quá trình lành 
vết thương gây xúc tiến cho sự co rút. Do đó, với 
một vật chêm được đặt giữa bề mặt cân cơ nâng 
mi và bờ trên sụn mi làm giá đỡ, tiến trình co rút 
này có thể được hạn chế. Đó chính là tiền đề của 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 78 
các công trình nghiên cứu phương pháp phẫu 
thuật hạ mi bằng cách dùng vật chêm. 
Có nhiều loại vật liệu đã được dùng như 
củng mạc, sụn mũi, sụn mi mắt bên kia, niêm 
mạc khẩu cái cứng,...(1,3,4) Tuy nhiên, có nhiều 
vấn đề như thải ghép, co rút mảnh ghép, biến 
chứng tại vị trí lấy mảnh ghép, kỹ thuật lấy 
mảnh ghép khá phức tạp và mất thời gian đã 
xảy ra đối với các loại vật chêm này. Mảnh ghép 
lý tưởng phải đem lại một kết quả dễ đoán, ổn 
định và ít biến chứng. Sụn tai là một vật liệu tự 
thân không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp cũng như 
nhiều thời gian để lấy. Bên cạnh đó, sụn tai vừa 
đàn hồi lại có độ cứng cần thiết trong vai trò một 
vật chêm để tạo hình dạng ổn định cho mí. Do 
tất cả các nguyên nhân trên, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu hiệu quả ban đầu của phẫu thuật 
dùng sụn tai làm vật chêm hạ mi cho các trường 
hợp co rút mi trên liên quan tuyến giáp mức độ 
trung bình đến nặng. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy 
kết quả hạ mi đạt được với trên 95,65% bệnh 
nhân, tỉ lệ tái phát rất thấp, chỉ chiếm 4,34% (1 
trong 23 mắt). Bên cạnh đó, yêu cầu thẩm mỹ về 
tính đối xứng giữa 2 mắt đạt loại tốt rất cao, 
chiếm 95,65%, hài lòng chiếm 0%, và không đạt 
chỉ chiếm 4,34% (chính là trường hợp co rút mi 
trên tái phát đã được đề cập ở trên). Trong phẫu 
thuật này, do đã có sự tính toán chính xác về 
kích thước mảnh sụn ghép, bệnh nhân không 
cần phải ngồi dậy nhiều lần để đánh giá mức độ 
hạ mi khi mổ như các phương pháp trước đó. 
Đây cũng là một điểm thuận tiện nữa đối với 
phương pháp phẫu thuật này. 
Bên cạnh đó, trong các tài liệu chúng tôi 
tham khảo được, chúng tôi không tìm ra bất cứ 
tài liệu nào đề cập về sự thay đổi độ ha mi ứng 
với kích thước mảnh sụn tai ghép vào. Do đó, 
chúng tôi bước đầu thực hiện khảo sát mối 
tương quan giữa kích thước mảnh sụn ghép và 
mức độ mi hạ được sau 6 tháng và được hệ số 
tương quan giữa 2 biến là 0,8463 (p<0,0001). 
Hệ số tương quan bình phương 
R2=0,7163=71,63% nói lên kích thước mảnh sụn 
ghép có thể giải thích cho 71,63% sự thay đổi về 
mức độ mi hạ được sau 6 tháng. 
Phương trình hồi quy: 
Mức độ hạ mi (mm) = -0,148 + 0,750 * kích 
thước sụn ghép (mm). 
Về mặt các tồn tại sau mổ, chỉ có 3 trường 
hợp (chiếm tỉ lệ 13,04%) còn co rút mi phía thái 
dương, trong đó có 2 trường hợp được mổ cắt 
cánh cơ nâng mi phía thái dương bổ sung đã 
giái quyết tốt tình trạng này. Bên cạnh đó, 
không còn ca nào tồn tại hở mi trên 1mm khi 
nhắm nhẹ mắt. 
Về biến chứng, biến chứng nghiêm trọng 
nhất mà chúng tôi gặp là biến chứng viêm loét 
giác mạc cực trên xảy ra trên 1 mắt (chiếm tỉ lệ 
4,34%), và 1 trường hợp khác bị biến chứng giác 
mạc với mức độ nhẹ hơn: chỉ bị viêm giác mạc 
chấm cực trên. Theo chúng tôi, do đó là những 
ca mới khởi đấu cho quá trình nghiên cứu, 
chúng tôi không chừa kết mạc phủ lên mảnh 
sụn ghép, đối với các ca về sau được phủ kết 
mạc sau khi ghép sụn, hoàn toàn không còn 
trường hợp nào chịu ảnh hưởng trên giác mạc 
nữa. Ngoài ra, còn gặp 1 trường hợp bị u hạt 
viêm đáp ứng tốt với corticoid nhỏ mắt tại chỗ. 
Biến chứng viêm bờ mi gặp ở 34,78% trường 
hợp. Và biến chứng nếp mí đôi cao khá nhiều, 
chiếm 43,48%, tuy nhiên, biến chứng này cải 
thiện dần theo thời gian và chúng tôi vẫn đang 
tiếp tục theo dõi trong thời gian dài hơn nữa. 
KẾT LUẬN 
Về kết quả bước đầu, ghép sụn tai ngoài làm 
vật chêm giữa bờ trên sụn mi trên với bề mặt 
cân cơ nâng mi có vẻ là phương pháp lý tưởng 
trong việc điều trị co rút mi trên liên quan tuyến 
giáp mức độ vừa và nặng bởi tính hiệu quả cao, 
tỉ lệ tái phát thấp, biến chứng thấp và nhẹ. Tuy 
nhiên, nghiên cứu này chỉ mới nghiên cứu trong 
thời gian ngắn và số mẫu không đủ nhiều nên 
chưa thể đưa ra các kết luận mang ý nghĩa thống 
kê cao. Do đó, cần mở rộng nghiên cứu trong 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 79
thời gian lâu hơn và bổ sung them nhiều mẫu để 
nghiên cứu có giá trị hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baylis H.I., Rosen N., Neuhaus R.W. (1982). “Obtaining 
auricular cartilage for reconstructive surgery”. Am. J. 
Ophthalmol.; 93(6): 709 – 712. 
2. Ben Simon G.J., Mansury A.M., et al. (2005). “Simultaneous 
orbital decompression and correction of upper eyelid 
retraction versus staged procedures in thyroid – related 
orbitopathy”. Ophthalmology; 112(5): 923 – 932. 
3. Fenton S., Kemp E.G. (2002). “A review of the outcome of 
upper lid lowering for eyelid retraction and complications of 
spacers at a single unit over five years”. Orbit; 21(4): 289 – 294. 
4. Lê Minh Thông, Vũ Anh Lê (1997). “Điều trị phẫu thuật trợn 
mí liên quan tuyến giáp”. Y học TP.HCM; phụ bản số 4, tập 1. 
5. Phạm Thị Bích Thủy (2000) “Khảo sát những biểu hiện ở mắt 
trong bệnh Basedow”. Luận văn nội trú, Đại học y dược 
TP.HCM. 
6. Putterman AM (1981). “Surgical treatment of thyroid – 
related upper eyelid retraction. Graded Muller’s muscle 
excision and levator recession”. Ophthalmolog; 88: 507 – 512. 
7. Putterman AM (1999). “Treatment of upper eyelid retraction: 
external approach”. Cosmetic Oculoplastic Surgery; 15: 151 – 
157. 
8. Putterman AM (1999). “Treatment of upper eyelid retraction: 
internal approach”. Cosmetic Oculoplastic Surgery; 16: 159 – 
168. 
9. Schwarz G.S., Spinelli H.M. (2008). “Correction of upper 
eyelid retraction using deep temporal fascia spacer grafts”. 
Plast. Reconstr. Surg.; 122(3): 765 – 774.