Ủ phân là một quá trình tự nhiên bắt nguồn thông qua sự kế tiếp của vi sinh vật, đánh dấu sự phân
hủy và ổn định của các chất hữu cơ có trong chất thải. Việc sử dụng các chất phụ gia vi sinh vật trong quá trình ủ
phân được coi là hiệu quả cao, có khả năng tăng cường sản xuất các enzym khác nhau, dẫn đến tốc độ phân hủy
chất thải tốt hơn. Trong công trình này, chúng tôi đã nghiên cứu sự diễn thế của các quần thể vi sinh vật trong quá
trình ủ vỏ cà phê với phân chuồng dưới sự bổ sung của chế phẩm vi sinh và một số thông số vật lý và hóa học được
theo dõi trong quá trình này, độ ẩm được duy trì ở mức 50 - 60 % và nhiệt độ được theo dõi hàng ngày, để nghiên
cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường quan trọng đến quần xã vi sinh vật. Kết quả cho thấy cơ chất chiếm tỷ lệ
chủ yếu bởi vi khuẩn (45,5 %), xạ khuẩn (31,2 %) và số lượng thấp hơn bởi nấm (22,3 %), chủ yếu đại diện bởi các
chi trội sau: Bacillus, Streptomyces, Actinomyces, Pseudomonas, Trichodema và Azospirillum. Phân tích hồi quy
nhiều lần cho thấy rằng thông số môi trường có ảnh hưởng lớn đến các nhóm vi sinh vật được đề cập là nhiệt độ.
Để hiểu rõ hơn vai trò của các vi sinh vật này đến sự phát triển của cây trồng, các nghiên cứu tiếp theo về sự tương
tác với cây trồng cũng như sự phân giải hóa sinh là rất cần thiết.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 17/06/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu quần xã vi sinh vật trong quá trình ủ các chất thải hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo khoa học Quốc gia Quản lý tài nguyên, môi trường
và phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Việt Nam
NGHIÊN CỨU QUẦN XÃ VI SINH VẬT TRONG QUÁ TRÌNH Ủ
CÁC CHẤT THẢI HỮU CƠ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH
Đỗ Quang Trung1,*, Đinh Mai Vân2, Lưu Thế Anh1
1Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội,
19 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội
2Khoa Lâm học, Trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội
*Email: trungcnsinh@gmail.com
Tóm tắt: Ủ phân là một quá trình tự nhiên bắt nguồn thông qua sự kế tiếp của vi sinh vật, đánh dấu sự phân
hủy và ổn định của các chất hữu cơ có trong chất thải. Việc sử dụng các chất phụ gia vi sinh vật trong quá trình ủ
phân được coi là hiệu quả cao, có khả năng tăng cường sản xuất các enzym khác nhau, dẫn đến tốc độ phân hủy
chất thải tốt hơn. Trong công trình này, chúng tôi đã nghiên cứu sự diễn thế của các quần thể vi sinh vật trong quá
trình ủ vỏ cà phê với phân chuồng dưới sự bổ sung của chế phẩm vi sinh và một số thông số vật lý và hóa học được
theo dõi trong quá trình này, độ ẩm được duy trì ở mức 50 - 60 % và nhiệt độ được theo dõi hàng ngày, để nghiên
cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường quan trọng đến quần xã vi sinh vật. Kết quả cho thấy cơ chất chiếm tỷ lệ
chủ yếu bởi vi khuẩn (45,5 %), xạ khuẩn (31,2 %) và số lượng thấp hơn bởi nấm (22,3 %), chủ yếu đại diện bởi các
chi trội sau: Bacillus, Streptomyces, Actinomyces, Pseudomonas, Trichodema và Azospirillum. Phân tích hồi quy
nhiều lần cho thấy rằng thông số môi trường có ảnh hưởng lớn đến các nhóm vi sinh vật được đề cập là nhiệt độ.
Để hiểu rõ hơn vai trò của các vi sinh vật này đến sự phát triển của cây trồng, các nghiên cứu tiếp theo về sự tương
tác với cây trồng cũng như sự phân giải hóa sinh là rất cần thiết.
Từ khóa: Phân vi sinh, chất thải hữu cơ, vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, chất thải rắn (CTR) nông thôn đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm. Lượng CTR nông thôn phát sinh
ngày càng nhiều, đa dạng về thành phần và phức tạp về tính chất. Ước tính, lượng CTR sinh hoạt nông thôn ở Việt
Nam phát sinh khoảng 18.210 tấn/ngày, tương đương với 6.646 triệu tấn/năm [1 - 6]. Ngoài ra, hàng năm, đàn vật
nuôi ở Việt Nam thải vào môi trường khoảng 73 triệu tấn CTR (phân khô, thức ăn thừa) [7 - 10]. Đây là nguồn tài
nguyên rất giá trị làm đầu vào cho các công nghệ sản xuất các loại phân hữu cơ. Tuy nhiên, việc thu gom CTR tại
nông thôn chưa được coi trọng, nhiều thôn, xã, chưa có các đơn vị chuyên trách trong việc thu gom CTR nông thôn.
Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt tại khu vực nông thôn mới đạt khoảng 40 - 55 %, chỉ có khoảng 40 - 70 % CTR nông
nghiệp, chăn nuôi được xử lý [10 - 13].
Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới với sản lượng hàng năm
ước tính một triệu tấn [6]. Trong đó, Tây Nguyên đóng góp tới 90 % tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của cả nước.
05 tỉnh Tây Nguyên bao gồm Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng, với tổng diện tích trồng cà
phê là 500.000 ha, sản lượng từ 800.000 - 900.000 tấn hạt cà phê [6 - 9]. Trong đó, chất thải vỏ cà phê thải ra hàng
năm từ sản xuất cà phê ở Tây Nguyên dao động từ 400.000 - 500.000 tấn [10]. Vỏ cà phê chứa một lượng lớn
caffeine và tannin, vì vậy có thể gây ô nhiễm và khó phân hủy trong tự nhiên, đặt ra nhiều vấn đề trong quá xử lý vỏ
cà phê. Tuy nhiên, vỏ cà phê rất giàu lignocelluloses, cơ chất lý tưởng cho quá trình phát triển của vi sinh vật [11].
Trước những thách thức về môi trường và phế liệu nông nghiệp, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới
đã và đang nghiên cứu sử dụng các chủng vi sinh vật có khả năng phân hủy nhanh các chất thải hữu cơ và ức chế
các vi sinh vật gây bệnh để sản xuất các chế phẩm vi sinh vật hữu ích bổ sung vào quá trình xử lý chất thải nông
nghiệp và vỏ cà phê thành phân bón hữu cơ, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phân huỷ rút ngắn được thời gian xử lý
và làm giảm mùi hôi trong quá trình xử lý, tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh.
Mặc dù quá trình ủ phân hữu cơ là một quá trình vi sinh, chúng ta còn biết rất ít về các vi sinh vật tham gia và
hoạt động của chúng trong các giai đoạn cụ thể của quá trình làm phân hữu cơ. Việc xác định sự đa dạng và cấu
trúc của các cộng đồng vi sinh vật làm phân trộn thông qua quần thể thành phần của chúng đã được các nhà
nghiên cứu phân bón quan tâm đáng kể nhằm giải quyết các câu hỏi sinh thái cơ bản như cộng đồng vi sinh vật
trong phân trộn trưởng thành giống nhau như thế nào được làm từ các nguyên liệu khác nhau và sử dụng các
phương pháp ủ phân khác nhau [14]. Các cộng đồng vi sinh vật khác nhau chiếm ưu thế trong các giai đoạn ủ
318 Đỗ Quang Trung, Đinh Mai Vân, Lưu Thế Anh
phân khác nhau (ưa ấm và ưa nhiệt), mỗi giai đoạn thích nghi với một môi trường cụ thể. Các thành phần của quần
xã vi sinh vật trong quá trình ủ phân được xác định bởi nhiều yếu tố (nhiệt độ, pH, hàm lượng nước, C/ N,).
Trong điều kiện hiếu khí, nhiệt độ là yếu tố chọn lọc chính đối với quần thể và quyết định tốc độ của các hoạt
động trao đổi chất.
Mục đích của nghiên cứu này là nghiên cứu sự sinh trưởng và phát triển của các quần thể vi sinh vật trong toàn
bộ quá trình ủ phân hữu cơ và ảnh hưởng của một số thông số vật lý và hóa học dưới nồng độ vi sinh vật. Thành
phần của quần xã vi sinh vật được khảo sát bằng các kỹ thuật nuôi cấy thông thường.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm ủ phân và lấy mẫu
Nghiên cứu được tiến hành tại Trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội. Quy trình ủ
như sau:
Từ 4 đến 5 giờ trước khi tiến hành ủ, bơm khoảng 5 lít nước sạch vào thùng sau đó, cho toàn bộ men sinh học,
đường, và phân u rê vào thùng chứa nước nói trên và khuấy đều cho tan hết. Vỏ quả cà phê được trải đều trên mặt
đất. Rải phân chuồng vãi đều trên bề mặt vỏ quả cà phê. Tiếp theo rải phân lân nung chảy.
Sau khi đã cho tất cả nguyên liệu vào với nhau, tiến hành đảo đều nguyên liệu này để cho tất cả các thành phần
được trộn thật đều với nhau. Tiếp theo phun đều lượng ở thùng chứa vào đống nguyên liệu. Đánh đống nguyên liệu
lại theo kích thước cao 1 m, đường kính đống là 2 m. Các mẫu được lấy hàng ngày trong bốn ngày đầu tiên và hàng
tuần trong thời gian còn lại (26 tuần) ở độ sâu 15 cm dưới bề mặt. Từ mỗi đống, ba mẫu được lấy từ các vị trí cách
nhau (khoảng cách 5 m), mỗi mẫu này bao gồm ba mẫu phụ được tách ra sau khi sàng (mắt lưới < 8 mm). Các mẫu
được vận chuyển nhanh chóng đến phòng thí nghiệm và tất cả các thử nghiệm được thực hiện trong cùng một ngày.
2.2. Các thông số hóa lý đo được
Nhiệt độ và pH của đống ủ được theo dõi hàng ngày trong suốt quá trình sử dụng nhiệt kế ủ phân được cắm ở
các độ cao khác nhau trong đống. Hàm lượng nước được xác định bằng cách làm khô mẫu ở 105 oC trong 48 giờ.
2.3. Phân lập vi sinh vật nuôi cấy từ phân trộn
- Phân lập các chủng vi sinh vật: Mẫu phân compost (5 g) được pha loãng trong 45 mL dung dịch đệm (0,06 M
Na2HPO4/NaH2PO4) (1/9 v/v), pH 7.6. Pha loãng nối tiếp thập phân (10-1 đến 10-10) đã được thực hiện và tiêm vô
trùng trong các đĩa Petri (10 µL cho 1 đĩa) với các môi trường nuôi cấy khác nhau: Potato Dextrose Agar (PDA),
Luria Broth (LB) và Starch Ammoniacal Agar (SAA); để tạo điều kiện cho sự phát triển của nấm, vi khuẩn và xạ
khuẩn tương ứng. Các đĩa Petri được ủ ở 30 oC và 50 oC trong 72 h (PDA), 37 oC hoặc 50 oC trong 24 h (NA) và
37 oC hoặc 55 oC trong 120 h (SAA), theo giai đoạn phân lập đã được thực hiện. Sau khi ủ các khuẩn lạc phân lập
được vi khuẩn, nấm và xạ khuẩn được chọn. Việc đánh giá nồng độ tế bào trong một mẫu phân ủ được xác định
bằng cách đếm canh trường pha loãng nối tiếp theo công thức:
CFU/g = Số khuẩn lạc × độ pha loãng × 100
- Xác định đặc tính của các dòng phân lập: Tiêu chuẩn hình thái thông thường và xét nghiệm sinh hóa đã được
thực hiện để nuôi cấy thuần chủng vi khuẩn và xạ khuẩn theo Hướng dẫn Bergey [15]. Việc xác định các loài nấm
và chi được thực hiện theo Raper và Fenell [16]; Ellis [17 - 18] và Bissett [19]. Tất cả các phân lập được đặc trưng
bởi các hệ thống kiểm tra API 20B.
2.4. Các phương pháp phân tích số liệu
- Các phương pháp phân tích thống kê: Tùy thuộc vào số lượng mẫu, đặc thù số liệu và tính phức tạp của
nghiên cứu mà các phương pháp thông kê được áp dụng, bằng cách sử dụng phần mềm Excel (trong trường hợp
phân tích thống kê đơn giản) hoặc SPSS hoặc R (trong trường hợp phân tích thống kê phức tạp). Đánh giá lựa
chọn các hàm công thức khác nhau trong xử lý so sánh số liệu giữa các mẫu.
- Các phương pháp xử lý và trình bày số liệu: Sử dụng các bảng biểu, đồ thị để trình bày những số liệu thống
kê, bằng cách sử dụng phần mềm Excel, SPSS.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Bổ sung vi sinh vật vào hỗn hợp phân trộn, ảnh hưởng đến nhiệt độ và lượng khí thải amoniac do quần thể vi
khuẩn ưa nhiệt và ưa nhiệt tăng sinh [20]. Ngoài ra, hoạt động của enzym được nâng cao và giảm thiểu thời gian
Nghiên cứu quần xã vi sinh vật trong quá trình ủ các chất thải hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh 319
trễ ban đầu của quá trình sinh học, là nguyên nhân dẫn đến việc tăng tốc quá trình ủ phân hữu cơ của những vi
khuẩn hiệu quả này. Nó cũng có thể làm giảm hiệu quả lượng khí thải có mùi, chủ yếu là các hợp chất hữu cơ dễ
bay hơi (VOC) và tạo ra phân trộn có giá trị dinh dưỡng cao hơn [21]. Một số nguồn phát thải đáng kể khác bao
gồm amoniac (hợp chất có mùi gốc nitơ) và khí thải dựa trên lưu huỳnh [22], một khi protein bị phân hủy trong
quá trình ủ phân. Một tác động tích cực đến việc phát thải các hợp chất có mùi như VOC và amoniac, đã được
phát hiện trong quá trình ủ rác nhà bếp [23]. Ngoài ra, Charles và Ho [24], cho rằng chế phẩm vi sinh trộn với các
chất hữu cơ, tăng cường tốc độ phân hủy và giảm lượng khí thải có mùi. Một quá trình ủ phân quy mô gia đình
khác của chất thải thực phẩm được thực hiện để xác định vai trò của chế phẩm vi sinh trong việc thúc đẩy quá
trình phân hủy, đạt được nhiệt độ cao hơn, khử mùi hôi và tăng cường quá trình làm mùn cho phân compost [25].
Các nhóm vi sinh vật được tìm thấy trong phức hợp vi sinh vật phân hữu cơ được thống kê trong Bảng 1: Vi
khuẩn hiếu khí Gram âm của chi Pseudomonas, Azotobacter, Azospirillum; Các vi khuẩn hiếu khí Gram dương
thuộc chi Micrococcus, vi sinh vật Gram âm bao gồm các vi khuẩn tạo bào tử của chi Bacillus. Các vi sinh vật của
dòng xạ khuẩn (Vi khuẩn Gram dương) bao gồm nhóm Streptomyces và Actinomyces. Ngoài ra, các loại nấm cũng
được tìm thấy: Trichoderma, Alternaria, Penicillium và Aspergillus. Mật độ quần thể vi sinh vật trong phân hữu
cơ thường cao (108 - 1011 CFUg-1).
Bảng 1. Số lượng thành phần vi sinh vật được tìm thấy trong phân compost
Thành phần vi sinh vật
Vi khuẩn (45,5 %)
Nấm (22,3 %) Xạ khuẩn (31,2 %)
Gram âm Gram dương
Pseudomonas* Micrococcus Trichoderma* Streptomyces*
Azotobacter Bacillus* Alternaria Actinomyces*
Azospirillum* Penicillium
Aspergillus
Ghi chú: * vi sinh vật chiếm ưu thế.
Phân tích dữ liệu về đa dạng vi sinh vật cho thấy sự thống trị các loài vi sinh vật có sự phong phú tương đối bị
loại bỏ hoặc đạt khoảng 30 % [26]. Cộng đồng vi sinh vật có hai loại vi sinh vật chiếm ưu thế Bacillus và
Streptomyces (đều có tần suất xuất hiện là 62,3 %), tiếp theo là Actinomyces (57,5 %), Pseudomonas (49 %),
Azospirillum (36,7 %). Nhiều trong số các chi đó cũng là thành viên của vi sinh vật đất. Những kết quả này không
đáng ngạc nhiên, do sự giống nhau giữa phân hữu cơ và đất trong điều kiện tốt như các đặc tính hóa lý.
Cơ chất được bao phủ với tỷ lệ chính là vi khuẩn (45,5 %), tiếp theo là xạ khuẩn (31,2 %) và số lượng thấp
hơn là nấm (22,3 %) (Bảng 1). Vi khuẩn về mặt dinh dưỡng cũng là nhóm vi sinh vật đa dạng nhất, sử dụng nhiều
loại enzyme để phân hủy hóa học nhiều loại vật liệu hữu cơ, do đó, số lượng vi khuẩn thường cao hơn nhiều so
với số lượng vi sinh vật khác, ví dụ: nấm (nếu tổng số lượng tương đương nhau). Do đó, vi khuẩn chịu trách
nhiệm cho hầu hết sự phân hủy ban đầu và sinh nhiệt trong phân hữu cơ, cung cấp các yêu cầu tăng trưởng chính
được đáp ứng.
Sự gia tăng mật độ vi khuẩn (Hình 4) và nấm (Hình 5) được chứng minh trong giai đoạn đầu của quá trình ủ,
bị ảnh hưởng cơ bản bởi pH (Hình 1), nhiệt độ (Hình 2) và độ ẩm (Hình 3).
Trong giai đoạn đầu của quá trình ủ phân, chất nền ở nhiệt độ môi trường, độ pH thường có tính axit nhẹ và
có sẵn các hợp chất hữu cơ dễ dàng. Nấm và vi khuẩn ưa ấm là hai đối tượng chính chủ động phân hủy các vật
liệu thải hữu cơ. Tỷ lệ bề mặt/ thể tích cao của vi khuẩn cho phép chuyển hóa nhanh cơ chất hòa tan vào trong tế
bào. Tuy nhiên, xạ khuẩn thường được xác định là một trong những nhóm chính chịu trách nhiệm chuyển đổi
chất hữu cơ trong giai đoạn sau của giai đoạn ủ phân và nhiệt độ cao (nhiệt độ từ 45 đến 550C) theo Chopra [27]
và Velasco và cộng sự [28]. Nhiệt độ cao hỗ trợ sự phân hủy của các chất hữu cơ như lignocellulose và loại bỏ
các vi sinh vật gây bệnh và gây dị ứng. Xạ khuẩn cạnh tranh với các sinh vật khác để lấy chất dinh dưỡng và có
thể ức chế sự phát triển của vi sinh vật do sản xuất kháng sinh, enzyme phân giải hoặc thậm chí do ký sinh trùng
(Hình 6). Chúng đóng một vai trò quan trọng trong phân hủy polyme tự nhiên xử lý và xâm chiếm các vật liệu
hữu cơ còn lại sau khi vi khuẩn và nấm đã tiêu thụ các hợp chất đơn giản; enzyme của chúng cho phép chúng
làm giảm các mảnh vụn cứng như: vỏ cà phê. Sự tương tác giữa các nhóm vi sinh vật chức năng khác nhau phụ
thuộc vào nguồn dinh dưỡng và cơ chế sinh hóa của các thay đổi chuyển hóa chất hữu cơ và vô cơ [29]. Các vi
sinh vật có hoạt động thủy phân cao chiếm ưu thế, chúng đang hình thành bào tử (Bacillus), sợi nấm
320 Đỗ Quang Trung, Đinh Mai Vân, Lưu Thế Anh
(Streptomyces, Actinomyces và nấm) và phân giải cellulose (nấm). Các vi khuẩn Pseudomonas, Azotobacter,
Azospirillum sử dụng vật liệu hữu cơ đơn giản được hình thành khi thủy phân và lên men trong điều kiện hiếu
khí. Sự phân phối lại của quần thể đến một mức độ chiếm ưu thế và sự phát triển của các dạng vi sinh vật ổn
định bảo tồn sự đa dạng của các loài trong cấu trúc của cộng đồng và biểu thị những thay đổi về cấu trúc.
Hình 1. Sự biến thiên của pH trong quá trình ủ vỏ cà
phê với phân chuồng
Hình 2. Sự biến thiên của nhiệt độ trong quá trình ủ
vỏ cà phê với phân chuồng
Hình 3. Sự biến thiên của độ ẩm trong quá trình ủ vỏ
cà phê với phân chuồng
Hình 4. Sự biến thiên của mật độ vi khuẩn trong quá
trình ủ vỏ cà phê với phân chuồng
Hình 5. Sự biến thiên của mật độ nấm trong quá trình
ủ vỏ cà phê với phân chuồng
Hình 6. Sự biến thiên của mật độ xạ khuẩn trong
quá trình ủ vỏ cà phê với phân chuồng
0
2
4
6
8
10
1 5 9 13172125293337414549535761
pH
Ngày theo dõi
0
10
20
30
40
50
60
70
0 4 8 12 16 20 24 28 32 36 40 44 48 52 56 60
N
hi
ệt
đ
ộ
(o
C)
EŐăLJ
0
10
20
30
40
50
60
70
0 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60
Ҿ
Ҧŵ
;й
Ϳ
Ngày
0
5
10
15
20
25
0 2 3 4 8 16 23 30 37 44 51 58 65
V
i k
hu
ẩn
(1
01
1 C
FU
/g
)
Ngày
0
2
4
6
8
10
0 2 3 4 8 16 23 30 37 44 51 58 65
N
ấm
(
10
8 C
FU
/g
)
Ngày
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 2 3 4 8 16 23 30 37 44 51 58 65
X
ạ
kh
uẩ
n
(1
01
0 C
FU
/g
)
Ngày
Nghiên cứu quần xã vi sinh vật trong quá trình ủ các chất thải hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh 321
Các chi Micrococcus, Bacillus, Streptomyces, Actinomyces, Azotobacter, Aspergillus, Penicillium và
Trichoderma đã được Ryckeboer và cộng sự [86]; Velarde và cộng sự [30] và Martínez [31] công bố trong các
nghiên cứu phân bón khác nhau. Một vài trong số các chi này có thể tìm thấy ứng dụng như các tác nhân sinh học
tiềm năng được sử dụng trong nông nghiệp như các tác nhân kiểm soát sinh học mầm bệnh hoặc như các chất kích
thích sự phát triển của rau.
4. KẾT LUẬN
Ủ phân được định nghĩa là sự phân hủy sinh học và ổn định các chất nền hữu cơ trong điều kiện hiếu khí để
cho phép phát triển nhiệt độ ưa nhiệt. Nhiệt độ ưa nhiệt này là kết quả của nhiệt sinh học. Việc ủ phân tạo ra sản
phẩm cuối cùng đủ ổn định để lưu trữ và sử dụng trên đất mà không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến sự phân hủy chất hữu cơ trong quá trình ủ phân. Trong thí nghiệm này, sự thay đổi của các
quần thể vi sinh vật trong quá trình ủ vỏ cà phê với phân chuồng có sự bổ sung của chế phẩm vi sinh và một số
thông số vật lý và hóa học được theo dõi trong quá trình này. Để nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường
quan trọng đến quần xã vi sinh vật, độ ẩm được duy trì ở mức 50 - 60 % và nhiệt độ được theo dõi hàng ngày. Kết
quả thí nghiệm cho thấy vi khuẩn sử dụng phần lớn các cơ chất (45,5 %), sau đó đến xạ khuẩn (31,2 %) và số
lượng thấp hơn bởi nấm (22,3 %). Trong cộng đồng vi sinh vật được phát hiện, chủ yếu đại diện bởi các chi trội
sau: Bacillus, Streptomyces, Actinomyces, Pseudomonas, Trichodema và Azospirillum. Ngoài ra, các kết quả thí
nghiệm cho thấy rằng nhiệt độ là thông số môi trường có ảnh hưởng lớn đến các nhóm vi sinh vật. Các nghiên cứu
tiếp theo về tương tác với cây trồng là cần thiết để hiểu rõ hơn về hành vi của vi sinh vật và so sánh cả hai kết quả.
Hơn nữa, cần tiến hành nghiên cứu một số cơ chế phân giải ở các cấp độ sinh hóa bởi chủng phân lập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đặng Thị An (2000), Xây dựng mô hình xử lý rác thải sinh hoạt bằng một số biện pháp sinh học. Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Hà Nội, tr. 1 - 9.
[2]. Lê Huy Bá (2005), Nghiên cứu quản lý chất thải rắn và nước thải tỉnh Bạc Liêu. Tuyển tập Công trình
khoa học công nghệ 2002 - 2005, tr. 88 - 90.
[3]. Nguyễn Hữu Bách (2000), Thực trạng rác thải ở Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp giải
quyết. Kỷ yếu Hội nghị SV NCKH của các trường Đại học sư phạm lần thứ nhất, thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 7 - 12.
[4]. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
[5]. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2002), Chiến lược quản lý chất thải rắn đô thị và khu công nghiệp
Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 52 - 59.
[6]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến 2020. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 8-16.
[7]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2006.
[8]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Sổ tay hướng dẫn quản lý môi trường cấp cơ sở. Nhà xuất bản Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 2 - 9.
[9]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Báo cáo diễn biến môi trường Quốc gia năm 2004, chất thải rắn.
[10]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Xây dựng mô hình và triển khai thí điểm việc phân loại, thu gom
và xử lý rác thải cho các khu đô thị mới.
[11]. Hoàng Kim Cơ (2004), Kỹ thuật và môi trường, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 19 - 23.
[12]. Huỳnh Thanh Danh (2002), Xây dựng mô hình cải thiện công tác vệ sinh môi trường tại 3 ấp thuộc thị trấn
Ô Môn, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Kỷ yếu các công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ
thành phố Cần Thơ giai đoạn 2001 - 2005, tr. 22 - 25.
[13]. Huỳnh Tuyết Hằng (2005), Tìm hiểu về tình hình thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt Thành
phố Huế. Luận văn tốt nghiệp Khoa Môi trường - Đại học Huế, tr. 34 - 41.
[14]. Tiquia S. M., Michel F. C. Jr. (2002), Bacterial Diversity in Livestock manure compost as characterized by
terminal restriction fragment length polymorphisms (T-RFLP) of PCRamplified 16S rRNA gene sequences.
322 Đỗ Quang Trung, Đinh Mai Vân, Lưu Thế Anh
In: Insam H., Riddech N., Klammer S. (eds) Microbiology of Composting. Springer, Berlin,
Heidelberg. https://doi.org/10.1007/978-3-662-08724-4_6.
[15]. Bergey´s Manual of Systematic Bacteriology. (