Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin, cùng với đó là các công cụ hỗ trợ cho công việc tích lũy thông tin cũng trở lên cực kỳ tiện lợi, dẫn đến khối lượng thông tin của các kho cơ sở dữ liệu (CSD) tăng lên rất nhanh. Cùng với đó các yêu cầu đối với quá trính phân tích dữ liệu ngày càng cao, không những phải đáp ứng được tính thời gian thực mà còn phải đưa ra được các thông tin có ích trong một “biển” dữ liệu thô và không đầy đủ vv, tất cả các yếu tố đó làm cho các bài toán phân tích và xử lý dữ liệu truyền thống trở lên không hiệu quả. Như vây, cần có các công cụ hoặc phương pháp mới để giải quyết vấn đề này
46 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu quy trình khám phá tri thức – khai phá dữ liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin, cùng với đó là các công cụ hỗ trợ cho công việc tích lũy thông tin cũng trở lên cực kỳ tiện lợi, dẫn đến khối lượng thông tin của các kho cơ sở dữ liệu (CSD) tăng lên rất nhanh. Cùng với đó các yêu cầu đối với quá trính phân tích dữ liệu ngày càng cao, không những phải đáp ứng được tính thời gian thực mà còn phải đưa ra được các thông tin có ích trong một “biển” dữ liệu thô và không đầy đủ…vv, tất cả các yếu tố đó làm cho các bài toán phân tích và xử lý dữ liệu truyền thống trở lên không hiệu quả. Như vây, cần có các công cụ hoặc phương pháp mới để giải quyết vấn đề này. Hiện nay trên thế giới các nhà phát triển CSDL đang rất quan tâm đến một mô hình CSDL gọi là cở sử dữ liệu chuỗi thời gian (có một số người gọi là cơ sở dữ liệu thời thời gian). Mô hình cở sở dữ liệu loại này có một số đặc điểm như: khối lượng CSDL cực lớn, đối tượng quan sát của nó thường là kết quả hoạt động của các hệ thống “nhiễu loạn”, thay đổi liên tục theo thời gian, thông tin có ích tồn tại dưới dạng phi chuẩn, chứa nhiều tạp chất và không đầy đủ, vv… Hệ thống “nhiễu loạn” là hệ thống mà các đối tượng trong nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố khác nhau, ngẫu nhiên và không xác định. Khi đó ngay cả các yêu cầu về việc lữu trữ, thống kê đối với dạng thông tin kiểu này đã là một nhiệm vụ cực kỳ phức tạp khi đối với các hệ quản trị CSDL hiện nay. Và đa số các nhà phát triển CSDL trên thế giới chọn một giải pháp là xây dựng một mô hình mới dựa trên các hệ quản trị CSDL sẵn có, như hệ quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ để lưu giữ và quản lý các loại CSDL loại này trong khi chờ các nhà sản xuất đưa ra được một phiên bản hữu hiệu cho loại dữ liệu trên. Tuy nhiên ngay cả khi đã có những công cụ phù hợp để lưu trữ và quản lý các dạng thông tin nói trên, thì để nhận được những thông tin có ích đối với dạng CSDL loại này, các biện pháp phân tích dữ liệu thông thường cũng gặp rất nhiều khó khăn, đôi khi là không thể giải quyết được. Đó chính là cơ sở cho sự xuất hiện của kỹ thuật “Khám phá tri thức - khai phá dữ liệu”. Đây là một thuật ngữ tương đối mới mẻ đối với các nhà phan tích CSDL ở Việt nam, trong khi đó thì nó đã được áp dụng rất là rộng rãi và hiệu quả trên thế giới. Bản chất của khám phá tri thức chính là việc áp dụng một loạt các bước phân tích và xử lý dữ liệu nhằm tìm ra các thông tin có ích, các quy luật tiềm ẩn, các mẫu mới trong CSDL. Thường thì kỹ thuật Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu được áp dụng trên các CSDL lớn, một trong các dạng đó là CSDL chuỗi thời gian. Vì vậy việc nghiên cứu quy trình Khám phá tri thức áp dụng trong CSDL chuỗi thời gian sẽ có một ý nghĩa nhất định trong thời đại ngày nay nhất là ở Việt nam khi kỹ thuật này đang còn rất là mới mẻ.
CHƯƠNG I : GIỚI THIỆU CHUNG
1.1.SỰ CẦN THIẾT CỦA QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH KHÁM PHÁ TRI THỨC –KHAI PHÁ DỮ LIỆU.
Hiện nay trên thế giới Khám phá tri thức – Khai phá giữ liệu đã và đang được áp dụng một cách rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau như : y tế , marketing , ngân hàng , viễn thông, internet… .Không ai có thể phủ định được những lợi ích to lớn mà nhờ áp dụng kĩ thuật này đem lại. Điều đó được minh chứng bằng thực tế: chẩn đoán bệnh trong y tế dựa trên kết quả xét nghiệm đã giúp cho bảo hiểm y tế Australia phát hiện ra nhiều trường hợp xét nghiệm không hợp lí tiết kiệm được 1 triệu $/năm; British Telecom đã phát hiện ra những nhóm người thường xuyên gọi cho nhau bằng mobile và thu lợi được hàng triệu USD; IBM Surf – Aid đã áp dụng Khai phá dữ liệu vào phân tích các lần đăng nhập Web vào các trang có liên quan đến thị trường để phát hiện sở thích khách hàng, từ đó đánh giá hiệu quả của việc tiếp thị qua Web và cải thiện hoạt động của các Website; Trang Web mua bán qua mạng Amazon cũng tăng doanh thu nhờ áp dụng Khai phá dữ liệu trong việc phân tích sở thích mua bán của khách hàng….Tuy nhiên, ở Việt nam hiện thuật ngữ Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu đang còn rất là mới mẻ, vì vậy việc đầu tư nghiên cứu một cách tỷ mỷ nhằm nắm rõ được bản chất của kỹ thuật Khám phá tri thức là gì, các bước chính trong quy trình khám phá tri thức được thực hiện như thế nào, thực chất của việc khai phá dữ liệu cũng như các giải thuật cúa nó là rất cần thiết đối với các nhà phát triển công nghệ thông tin Việt nam nói chung, và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực mới mẻ này nói riêng.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Vì kỹ thuật Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu là một lĩnh vực mới, do đó mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách tổng quan quy trình Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu, từ đó có thể nắm bắt được những luận điểm, giải thuật cơ bản nhất của kỹ thuật này làm tiền đề cho việc nghiên cứu phát triển các ứng dụng cụ thể nào đó.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Đề tài chỉ dừng ở phạm vi nghiên cứu các bước cơ bản nhất của quy trình Khám phá tri thức, áp dụng vào việc phân tích CSDL chuỗi thời gian mà cụ thể là CSDL của thị trường chứng khoán. Giới thiệu kỹ thuật làm sạch giữ liệu bằng việc áp dụng phương pháp trung bình trượt hàm mũ, đồng thời đưa ra thuật toán phân loại trạng thái của hệ thống “nhiễu loạn” dựa trên cặp chỉ số xu hướng. Từ đó đưa ra giải thuật dự báo cho trạng thái của thị trường chứng khoán.
1.4. CÁCH THIẾT KẾ CÁC PHẦN NỘI DUNG CHÍNH TRONG BẢN THUYẾT MINH.
- Chương1: Giới thiệu chung. Nói về sự cần thiết của việc nghiên cứu quy trình Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu, mục đích, phạm vi nghiên cứu, Cuối là phần giới thiệu về các phần chính trong bản thuyết minh
- Chương2: Giới thiệu tổng quan về khám phá tri thức. Chương này đưa ra các định nghĩa, khái niệm về Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu, sự cần thiết của Khám phá tri thức – Khai phá dữ liệu, các lĩnh vực liên quan đến Khám phá tri thức.
- Chương3: Nghiên cứu quy trình khám phá tri thức. Trong chương này giới thiệu các giai đoạn của quá trình khám phá tri thức, nhiệm vụ của quá trình khám phá tri thức, các bước chính trong quy trình khám phá tri thức, hướng tiếp cận và các kỹ thuật chính trong Khai phá dữ liệu, so sánh Khai phá dữ liệu với một số phương pháp cổ điển, hướng nghiên cứu và việc ứng dụng của Khai phá dữ liệu hiện nay.
- Chương4: ứng dụng quy trình khám phá tri thức vào việc phân tích CSDL chứng khoán. Chương này sẽ đưa ra các khái niệm và định nghĩa liên quan đến CSDL chuỗi thời gian, các đặc điểm của thị trường chứng khoán, đưa ra giải thuật lọc dữ liệu tần số thấp bằng phương pháp trung bình trượt hàm mũ, thuật toán phân loại trạng thái và tích lũy thông tin thống kê dựa trên cặp chỉ số xu hướng, xây dựng thuật toán dự báo trạng thái tự do của hệ thống.
- Kết luận: Phần này đưa ra các kết luận về kết quả nghiên cứu của luận văn, hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo.
CHƯƠNG II : TỔNG QUAN VE KHÁM PHÁ TRI THỨC – KHAI PHÁ DỮ LIỆU
2.1. THẾ NÀO LÀ KHÁM PHÁ TRI THỨC – KHAI PHÁ DỮ LIỆU.
Nếu cho rằng các điện tử và các sóng điện tử là cốt lõi của kỹ thuật điện tử thì trong ngành công nghệ thông tin có thể coi dữ liệu, thông tin và tri thức là tiêu điểm của một lĩnh vực mới trong nghiên cứu và phát triển ứng dụng và được gọi là Khám phá tri thức và Khai phá dữ liệu.
Yếu tố thành công trong mọi hoạt động kinh doanh ngày nay là việc biết sử dụng thông tin một cách có hiệu quả. Điều đó có nghĩa là từ các dữ liệu sẵn có, phải tìm ra những thông tin tiềm ẩn có giá trị mà trước đó chưa được phát hiện, tìm ra những xu hướng phát triển và những yếu tố tác động lên chúng. Thực hiện công việc đó chính là thực hiện quá trình Khám phá tri thức trong các cơ sở dữ liệu mà trong đó kỹ thuật cho phép ta lấy được các tri thức chính là kỹ thuật Khai phá dữ liệu.
Như John Naisbett đã nói “Chúng ta đang chìm ngập trong dữ liệu mà vẫn đói tri thức”. Thông thường, chúng ta xem dữ liệu như một chuỗi các bits, các số và biểu tượng hoặc các đối tượng với một ý nghĩa nào đó khi nó được gửi tới một chương trình trong một dạng thức nhất định. Chúng ta sử dụng các bits để đo thông tin và xem nó như là các dữ liệu đã được lọc bỏ các dư thừa, được rút gọn tới mức tối thiểu để đặc trưng một cách cơ bản cho dữ liệu. Dữ liệu thường được cho bởi các giá trị mô tả các sự kiện, hiện tượng cụ thể. Còn tri thức (knowledge) là gì? Có thể có những định nghĩa rõ ràng để phân biệt các khái niệm dữ liệu, thông tin và tri thức hay không? Khó mà định nghĩa chính xác nhưng phân biệt chúng trong những ngữ cảnh nhất định là rất cần thiết và có thể làm được. Thông tin là một khái niệm rất rộng, khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác cho khái niệm này. Cũng không thể định nghĩa cho khái niệm tri thức cho dù chỉ hạn chế trong phạm vi những tri thức được chiết xuất từ các CSDL. Tuy nhiên, chúng ta có thể coi tri thức như là các thông tin được tích hợp, bao gồm các sự kiện và các mối quan hệ giữa chúng. Các mối quan hệ này có thể được nhận biết, phát hiện hay học được. Nói cách khác tri thức có thể được coi là dữ liệu có độ trừu tượng và tổ chức cao. Nếu xét trong ngữ cảnh của ngôn ngữ thì có thể hiểu tri thức là một biểu thức trong một ngôn ngữ nào đó diễn tả một (hoặc nhiều) mối quan hệ giữa các thuộc tính trong các dữ liệu đó. Các ngôn ngữ thường được dùng để biểu diễn tri thức (trong việc phát hiện tri thức từ các CSDL) là các khung (frames), các cây và đồ thị, các luật (rules), các công thức trong ngôn ngữ logic mệnh đề hoặc tân từ cấp một, các hệ thống phương trình,... Ví dụ như ta có các luật mô tả các thuộc tính của dữ liệu, các mẫu thường xuyên xảy ra, các nhóm đối tượng trong CSDL…
Khám phá tri thức và Khai phá dữ liệu - một lĩnh vực học thuật đang phát triển nhanh chóng kết hợp với quản trị CSDL, khoa học thống kê, máy học và các lĩnh vực có liên quan mà mục tiêu cuối cùng của nó là trích rút ra những tri thức hữu ích từ tập các dữ liệu lớn.
Giống như Khai phá dữ liệu, Khám phá tri thức cũng có thể hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng tựu chung lại chúng ta có thể khái niệm Khám phá tri thức như sau:
Khám phá tri thức trong CSDL là một quá trình của việc xác định giá trị, cái mới lạ, tri thức tiềm ẩn và tri thức cuối cùng của các khuôn mẫu/mô hình trong dữ liệu. Khai phá dữ liệu là một bước trong quá trình Khám phá tri thức bao gồm các thuật toán Khai phá đặc biệt nằm trong giới hạn khả năng của máy tính để tìm ra các mẫu và mô hình trong dữ liệu.[8]
2.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA KHÁM PHÁ TRI THỨC
Có rất nhiều lý do để giải thích sự cần thiết của việc Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu, điển hình là:
Có rất nhiều tổ chức tập hợp quá nhiều dữ liệu, vậy họ phải làm gì với chúng.
Con người lưu trữ dữ liệu bởi vì họ cho rằng một số giá trị hữu ích được mã hóa hoàn toàn trong dữ liệu.
Trong kinh doanh, cần thu thập các thông tin về thị trường, về các đối thủ và về khách hàng. Trong sản xuất, cần thu thập các dữ liệu về thời điểm hiệu quả và tối ưu nhất phục vụ cho mục đích cải tiến quy trình và giải quyết các sự cố.
Chỉ có một phần nhỏ của dữ liệu (khoảng 5 đến 10%) là luôn được phân tích.
Sự gia tăng của dữ liệu cản trở các phương pháp phân tích truyền thống.
Giá trị dữ liệu là quá lớn đối với cách thức phân tích cổ điển. Chúng ta có thể không bao giờ nhìn thấy chúng một cách chọn vẹn hoặc không thể lưu dữ trong bộ nhớ.
Dữ liệu cần tìm kiếm không tồn tại dưới dạng tường minh mà dưới dạng phi cấu trúc, trong các quy luật tiềm ẩn.
Sự phát triển của mạng máy tính đã gia tăng khả năng truy cập vào dữ liệu.
Người sử dụng cuối không phải là nhà thống kê đơn thuần, họ cần biết tri thức từ CSDL mà họ đang lưu trữ.
Sự cần thiết phải nhanh chóng ra quyết định và phản ứng lại những cơ hội xuất hiện trước các đổi thủ của mình.
Cùng với việc lớn lên của CSDL, khả năng để đưa ra quyết định và hỗ trợ phân tích là không thể thực hiện được với truy vấn truyền thống (SQL).
Rất nhiều kiểu câu truy vấn mà con người quan tâm là rất khó thực hiện hay miêu tả trong ngôn ngữ vấn tin, đại loại như:
Tìm tất cả các bản ghi nghi là gian lận.
Tìm tất cả các bản ghi tương tự như các bản ghi trong bảng X.
Một số vấn đề với dạng thức truy vấn:
Không thể tối ưu hóa thông qua truy vấn,
Không có nhiều thông tin trong các trường của CSDL hoặc trong các phương pháp thống kê cổ điển.
2.3. KHÁM PHÁ TRI THỨC VÀ CÁC LĨNH VỰC LIÊN QUAN.
Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu là một lĩnh vực khoa học liên quan tới nhiều lĩnh vực khác như: Khoa học thống kê, Máy học, CSDL, thuật toán, trực quan hóa, thực thi cao và tính toán song song. Tri thức thu được từ các hệ thống chuyên môn thông minh và sự trực quan hóa (hình dung) dữ liệu. Một hệ thống Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu đặc trưng bởi các phương thức, thuật toán, kỹ thuật từ các lĩnh vực khác nhau ở trên. Nhưng mục đích chung nhất là chiết xuất ra các tri thức từ dữ liệu xem xét trong trường hợp CSDL lớn.
Lĩnh vực máy học và nhận dạng mẫu đan xen với Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu trong hướng nghiên cứu về lý thuyết và thuật toán đối với các hệ thống nhằm trích rút các mẫu, các mô hình từ dữ liệu (phần chính của nó chính là các kỹ thuật Khai phá dữ liệu). Trọng tâm của Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu là mở rộng về lý thuyết và các thuật toán đối với vấn đề tìm kiếm ra các mẫu đặc trưng trong một tập rộng lớn của thế giới dữ liệu thực.
Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu cũng có nhiều điểm chung với khoa học thống kê, đặc biệt là việc phân tích dữ liệu khám phá (EDA - Exploratory Data Analysis). Một hệ thống Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu thường gắn liền với các thủ tục thống kê đặc biệt đối với mô hình dữ liệu và điều quản nhiễu trong khung Khám phá tri thức chung.
Bên cạnh đó Khám phá tri thức - Khai phá dữ liệu cũng liên quan mật thiết với lĩnh vực khoa học gọi là Kho dữ liệu (Data Warehousing). Kho dữ liệu ám chỉ đến xu hướng thông dụng gần đây là lựa chọn, giải quyết dữ liệu một cách rõ ràng và làm cho chúng có khả năng phục hồi trực tuyến. Một phương pháp thông dụng cho việc phân tích kho dữ liệu được gọi là OLAP - xử lý phân tích trực tuyến. Tiêu điểm của các công cụ OLAP là cung cấp cách phân tích dữ liệu đa chiều. Việc phân tích dữ liệu đa chiều này mạnh hơn so với SQL (Standard Query Language) - Ngôn ngữ vấn tin chuẩn trong việc xử lý các dữ liệu nhiều chiều. Chúng ta xem cả hai khái niệm Khám phá tri thức và OLAP là các khía cạnh về một vấn đề mới của trích rút thông tin tri thức và các công cụ quản lý.
2.4 THẾ NÀO LÀ KHÁM PHÁ DỮ LIỆU
Hai thuật ngữ “Khám phá tri thức” và “Khai phá dữ liệu” đã xuất hiện và phổ biến trên thế giới, tuy nhiên ở việt nam thì những thuật ngữ này còn tương đối là mới mẻ do vậy rất nhiều người đã coi khai phá dữ liệu và khám phá tri thức trong cơ sở dữ liệu (knowledge discovery in databases - kdd ) là như nhau. Tuy nhiên thực chất , khai phá dữ liệu chỉ là một khâu trong quá trình khám phá tri thức.
Tiến trình trong thu thập dữ liệu số và công nghệ lưu trữ dẫn đến sự lớn lên của các CSDL đồ sộ. Điều này đã xuất hiện trong tất cả lĩnh vực từ dữ liệu trong các hoạt động của con người (như dữ liệu giao dịch thị trường, bản ghi việc sử dụng thẻ tín dụng, thông tin về các cuộc gọi điện thoại, các thống kê của chính phủ) tới các dữ liệu thu thập được từ bên ngoài (như hình ảnh các thiên thể, CSDL về phân tử, hoặc bản ghi y tế). Cùng với sự lớn lên của dữ liệu là sự lớn lên của mối quan tâm về các vấn đề về khả năng sao lưu dữ liệu này (tapping these data), khả năng trích rút từ chúng các thông tin có giá trị . Khoa học trích ra các thông tin hữu ích từ một tập dữ liệu (các CSDL) lớn được xem là Khai phá dữ liệu (Data mining). Nó là một khoa học liên ngành mới, giao của thống kê học, học máy, quản trị dữ liệu và các CSDL, nhận dạng khuôn mẫu, trí tuệ nhân tạo, và các lĩnh vực khác. Tất cả chúng liên quan đến các khía cạnh cụ thể của phân tích dữ liệu, chúng có nhiều thứ chung, nhưng mỗi môn có các bài toán và phương pháp giải quyết phân biệt và đặc trưng.
2.5. ĐINH NGHĨA KHÁM PHÁ DỮ LIỆU
Khái niệm Khai phá dữ liệu ra đời vào cuối những năm 80. Nó bao hàm một loạt các kỹ thuật nhằm phát hiện ra các thông tin có giá trị tiềm ẩn trong các tập dữ liệu lớn. Một số tên khác được sử dụng với ý nghĩa tương tự như lĩnh vực Khai phá dữ liệu như : Khảo cổ dữ liệu, Nạo vét dữ liệu, Phân tích sự phụ thuộc chức năng, và Thu hoạch dữ liệu, ... Nhưng tựu chung lại, về bản chất, Khai phá dữ liệu liên quan đến việc phân tích các dữ liệu và sử dụng các kỹ thuật đặc biệt để tìm ra các mẫu đặc trưng trong một tập dữ liệu khổng lồ. Có rất nhiều định nghĩa về Khai phá dữ liệu đã được các tác giả khác nhau đưa ra; sau đây là một số định nghĩa tham khảo mà các nhà khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này phát biểu:
Định nghĩa của Ferrurra: “Khai phá dữ liệu là tập hợp các phương pháp được dùng trong tiến trình Khám phá tri thức để tìm ra sự khác biệt các mối quan hệ và các mẫu chưa biết bên trong dữ liệu”
Định nghĩa của Parsaye: “Khai phá dữ liệu là quá trình trợ giúp quyết định, trong đó chúng ta tìm kiếm các mẫu thông tin chưa biết và bất ngờ trong CSDL lớn”
Định nghĩa của Mitchell: “Khai phá dữ liệu là việc sử dụng các dữ liệu đã có để khám phá các quy tắc và đưa đến các quyết định”
Định nghĩa của Groth: “Khai phá dữ liệu là một quá trình xác định các mẫu ẩn, xu thế và mối quan hệ của dữ liệu”.
Định nghĩa của Berry & Linoff: “Khai phá dữ liệu là quá trình khám phá và phân tích tự động một lượng lớn dữ liệu để khám phá ra các mẫu và các luật”.
Định nghĩa của Wegman: “Khai phá dữ liệu là việc sử dụng các kỹ thuật tính toán để phân tích dữ liệu với sự tác động rất ít của con người”.
Việc định nghĩa một khoa học liên ngành luôn gây tranh cãi; các nhà nghiên cứu thường không nhất trí về phạm vi chính xác và giới hạn về lĩnh vực nghiên cứu của họ. Với suy nghĩ như vậy và chấp nhận rằng có thể những người khác không đồng tình về chi tiết, chúng ta có thể khái niệm về Khai phá dữ liệu như sau:
Khai phá dữ liệu là sự phân tích của các tập dữ liệu quan sát (thường là lớn) để tìm ra các mối liên hệ rõ ràng (unsuspected) và để tóm tắt dữ liệu theo các cách mới mà vừa dễ hiểu, vừa hữu ích cho người sở hữu dữ liệu.
Các mối liên hệ và các tóm tắt thu được thông qua Khai phá dữ liệu thường gọi là các mô hình (models) hoặc khuôn mẫu (patterns). Ví dụ như các phương trình tuyến tính, các luật, các nhóm, các đồ thị, các cấu trúc cây, các khuôn mẫu lặp lại theo thời gian.
Khái niệm ở trên nhắc đến “dữ liệu quan sát - observational data”, đối lập với “dữ liệu thực nghiệm - experimental data). Khai phá dữ liệu thường làm việc trên dữ liệu mà đã thực sự được thu thập trước đó cho mục đích khác với phân tích của Khai phá dữ liệu (chẳng hạn, chúng được thu thập nhằm cập nhật tất cả các giao dịch trong một ngân hàng). Điều đó có nghĩa rằng các mục tiêu của Khai phá dữ liệu không được xác định trong chiến lược thu thập dữ liệu. Điều này là một trong những cái để phân biệt Khai phá dữ liệu với thống kê học (statistics), đối với thống kê, dữ liệu thường được thu thập bởi sử dụng các chiến lược hiệu quả để trả lời các câu hỏi xác định trước. Với lý do này, Khai phá dữ liệu thường được coi là phân tích dữ liệu thứ cấp (“secondary”).
Khái niệm trên cũng đề cập đến các tập dữ liệu trong Khai phá dữ liệu thường là lớn. Nếu chỉ làm việc trên tập dữ liệu nhỏ, chúng ta hoàn toàn mới chỉ thảo luận phân tích dữ liệu khám phá cổ điển (classical exploratory data analysis) như công việc của các nhà thống kê. Khi đối mặt với dữ liệu lớn, các bài toán mới sẽ nảy sinh. Một số bài toán thì liên quan đến các vấn đề lưu trữ và truy cập dữ liệu, một số khác thì liên quan đến các vấn đề cơ bản như là làm thế nào để xác định các đại diện của dữ liệu, làm thế nào phân tích dữ liệu trong thời gian chấp nhận được, làm thế nào để quyết định xem một mối liên hệ chỉ đơn thuần là sự xuất hiện ngẫu nhiên không phản ánh một thực tế nào cả. Thông thường, dữ liệu có sẵn chỉ bao gồm một mẫu (sample) từ một tập đầy đủ dữ liệu; mục đích là khái quát hóa (generalize) từ mẫu đó cho toàn bộ tập dữ liệu. Chẳng hạn chúng ta mong muốn dự đoán hành vi của các khách hàng tương lai, hoặc dự đoán các tính chất của cấu trúc proteins mà chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Những khái quát hóa như vậy