Bài báo giới thiệu các tính chất và thành phần của chất thải rắn trong
quá trình khai thác than tại vùng mỏ Quảng Ninh. Đề xuất công nghệ
sử dụng loại vật liệu này để sản xuất gạch gốm tường cấu trúc đặc.
Bằng việc sử dụng các loại vật liệu này sẽ tạo ra các sản phẩm có chất
lượng và công nghệ sản xuất đơn giản, giảm ô nhiêm môi trường, tiết
kiệm tài nguyên đất sét và nhiên liệu (than đá).
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 10/06/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sản xuất gốm tường cấu trúc đặc trên cơ sở phế thải khai thác than đá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 2
PHẦN 1
LĨNH VỰC MỎ CÔNG TRÌNH - TRẮC ĐỊA - ĐỊA CHẤT
Nghiên cứu sản xuất gốm tường cấu trúc đặc trên cơ sở phế thải
khai thác than đá
Hoàng Hùng Thắng1, Tăng Văn Lâm2,*, Vũ Kim Diến3 Phạm Đức Thang1,
1Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
2Khoa xây dựng, Trường Đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội
3Bộ môn công nghệ bê tông & chất kết dính, Trường Đại học xây dựng quốc gia Mátxcơva
* Email: lamvantang@gmail.com
Mobile: 0917422689
Tóm tắt
Từ khóa:
Gạch gốm, khai thác than, đất sét,
phế thải.
Bài báo giới thiệu các tính chất và thành phần của chất thải rắn trong
quá trình khai thác than tại vùng mỏ Quảng Ninh. Đề xuất công nghệ
sử dụng loại vật liệu này để sản xuất gạch gốm tường cấu trúc đặc.
Bằng việc sử dụng các loại vật liệu này sẽ tạo ra các sản phẩm có chất
lượng và công nghệ sản xuất đơn giản, giảm ô nhiêm môi trường, tiết
kiệm tài nguyên đất sét và nhiên liệu (than đá).
Abstract
Keywords:
Ceramic bricks, coal mining, clay,
waste
This paper introduces the properties and composition of the waste
in the process of coal mining. From there presented of technology
using this type of waste material to make Ceramic walls brick for
solid structural. With the use of these materials has created
products of uniform quality, simple production technology, reduce
environmental pollution, save clay materials and fuel (coal).
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật liệu gốm tường là một trong những vật
liệu xây dựng được sử dụng lâu đời nhất trong các
khối tường xây chịu lực hoăc không chịu lực của
hầu hết các công trình xây dựng. Sau nhiều thế kỷ,
gạch gốm tường vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong thị
trường xây dựng do những tính chất cơ lý và nhiệt
lý, độ bền và tuổi thọ, cũng như sự thân thiện với
môi trường và tính trang trí cao [1, 2].
Cùng với quá trình khai thác than, nhất là
đối với các mỏ khai thác lộ thiên, thải ra môi
trường với khối lượng lớn đất đá thải và phế liệu,
từ đó diện tích bãi thải ngày càng mở rộng, ảnh
hưởng xấu đến môi trường sống của con người.
Theo “Quy hoạch phát triển ngành than Việt
Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm
2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
sản lượng than thương phẩm sẽ tăng từ mức 45-47
triệu tấn, năm 2012, đến năm 2030 là trên 75 triệu
tấn. Tính toán cụ thể cho năm 2012, sản lượng than
khai thác lộ thiên chiếm tỷ lệ 55% và với hệ số bóc
hiện tại 10-14 m3/tấn, theo đó khối lượng đất đá
thải, chỉ tính riêng do khai thác lộ thiên đã là 250 -
300 triệu m3.
Hình 1. Bãi thải khai thác than khu vực phía Nam
Mông Dương
Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu
xây dựng Việt Nam đến năm 2020” đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó “Khuyến
khích việc chuyển đổi nguyên liệu sản xuất từ đất
sét sản xuất gạch nung sang nguyên liệu đất đồi,
đất bãi và phế thải công nghiệp (đá bìa trong khai
thác than, đá sít than ).
Từ đó, việc nghiên cứu, tái sử dụng có hiệu
quả các loại phế thải trong quá trình khai thác than
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 3
là rất cần thiết.
Kinh nghiệm trên thế giới, ở nhiều nước như
CHLB Nga, CH Pháp, Trung Quốc việc sản xuất
gạch từ nguyên liệu đá thải mỏ đã được áp dụng
khá phổ biến.
Ở CHLB Nga: Công nghệ sản xuất gạch
từ nguyên liệu đá xít thải đã được áp dụng tại
các nhà máy tuyển than Abasebxki,
Karagandiski, Novokuznheski vùng Luski.
Thành phần khoáng vật chủ yếu có trong đá xít
thải gồm: SiO2 51,41%; Al2O3 16,36 %; Fe2O3
8,37% và MKN (hàm lượng mất khi nung)
22,57%. Sản phẩm gạch có độ bền nén 110-120
kG/cm2 đáp ứng yêu cầu sử dụng trong xây
dựng dân dụng và công nghiệp.
Ở CH Pháp, Occidental Industries (OCI) là
công ty nổi tiếng trên thế giới về chuyển giao công
nghệ sản xuất gạch từ đá xít thải. Với nguyên liệu
đá xít có thành phần cỡ hạt 0-0,5mm chiếm tỉ lệ
hơn 80% và độ tro từ 90-92%, sản phẩm gạch được
sản xuất theo công nghệ của OCI có độ bền nén
đến 300 kG/cm2.
Trung Quốc là nước triển khai áp dụng
rộng rãi công nghệ sản xuất gạch từ đá xít thải.
Ngay từ năm 1990, công nghệ sản xuất vật liệu
xây dựng từ xít thải với khẩu hiểu “sản xuất gạch
không cần đất sét, đốt gạch không cần than” đó
khá phổ biến. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra
nhiều chính sách ưu tiên để nghiên cứu phát triển
công nghệ này như cho vay vốn ưu đãi để đầu tư,
miễn giảm thuế trong thời gian đầu khi đưa vào
sản xuất, khuyến khích sử dụng.
Thực tế, ở nước ta cũng đã có nhiều công
trình nghiên cứu và sử dụng các loại phế thải này
như: năm 2004, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã
đề xuất và triển khai thực hiện đề tài “Nghiên cứu
công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng từ nguồi đá
xít thải từ nhà máy tuyển than Hòn Gai”, kết quả
nghiên cứu của đề tài đã sản xuất thử và đưa vào sử
dụng trong xây dựng hơn 30.000 viên gạch từ
nguồn xít thải của nhà máy tuyển than Hòn Gai,
Cửa Ông. Kết quả kiểm nghiệm và sử dụng đã cho
thấy gạch nung từ đá xít thải nhà máy tuyển đạt
được chất lượng tương đương so với gạch nung từ
đất sét. Các kết quả nghiên cứu bước đầu đã mở ra
triển vọng to lớn, khẳng định công nghệ sản xuất
vật liệu xây dựng từ đá xít thải các nhà máy sàng
tuyển than [3].
Những năm gần đây Nhà máy xi măng Hoàng
Thạch đã sử dụng từ 5-7% đá xít than của nhà máy
tuyển than Hòn Gai để thay thế một phần đá sét nhằm
tiết kiệm Bô xít và nhiên liệu trong quá trình sản xuất
xi măng [4]; Nhà máy Xi măng Hạ Long, Thăng
Long, ChinhFon đã sử dụng khoáng Arghilit (đá sét
kết) để thay thế một phần đất sét trong phối liệu của
quá trình sản xuất xi măng.
Gốm tường là các loại vật liệu đất sét nung
được sử dụng rất phổ biến trong xây dựng. Quá trình
sản xuất gốm tường hiện đang sử dụng rất nhiều
lượng nguyên liệu là đất sét dẻo, phần lớn có nguồn
gốc từ đất nông nghiệp. Do đó, sản xuất gạch từ phế
thải khai thác than là một hướng tích cực, cải thiện
môi trường và giảm được lượng đất sét dẻo.
Trong bài viết này trình bày về khả năng sử
dụng phế thải khai thác than nói chung, kể cả đất,
đá thải sau khai thác và công nghệ sản xuất gạch
gốm tường cấu trúc đặc.
2. ĐẶC TÍNH CỦA PHẾ THẢI SAU QUÁ
TRÌNH KHAI THÁC THAN
Trầm tích chứa than vùng mỏ Quảng Ninh
bao gồm đá cuội, sạn kết, cát kết, bột kết, sét kết và
các vỉa than. Trong phế thải khai thác than thường
chứa các khoáng sét ở dạng nếp xiên, gồm các loại
đá sét kết, cát kết, đá cacbonat hóa.
Theo nghiên cứu [5], thành phần khoáng của
phế thải khai thác than đá bao gồm các loại khoáng
vật chính sau:
- Arghilit (đá sét kết) có thành phần giống
như đất sét, nhưng ở dạng đá, cứng và ít dẻo hơn
đất sét.
- Alevrolit (bột kết), thường nằm xen giữa
các lớp than.
- Đá sa thạch (cát kết)
Ngoài 3 loại khoáng đó ra, trong thành
phần của phế thải còn có đá cacbonat, đá cacbon
(than đá) và các sản phẩm khác ở dạng trầm tích.
Tuy nhiên, thành phần chủ yếu là khoáng Arghilit
và Alevrolit, ngoài ra còn chứa một lượng than
đá nhất định, với cỡ hạt thay đổi và biến động
trong một phạm vi lớn.
Arghilit, Alevorit và sa thạch có độ cứng
cao, hầu như không tan trong nước, nên chúng
không có khả năng liên kết, không có tính dẻo như
đất sét. Để sử dụng được các loại phế thải này làm
gạch gốm, phải có quá trình gia công cơ học (đập,
nghiền) đến một cỡ hạt đáp ứng yêu cầu và phải
dùng kết hợp với một lượng chất kết dính là các
loại khoáng sét tự nhiên (đất sét dẻo).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Theo [5], khoáng phế thải khai thác than có
các thành phần khoáng cơ bản của các như sau:
- SiO2 nằm trong các khoáng Arghilit,
Alevrolit và sa thạch, với hàm lượng dao động
trong khoảng 65÷70%. Thành phần này tương tự
như trong thành phần của nguyên liệu khoáng sét
dùng để sản xuất gồm tường [6, 7]. Tuy nhiên,
SiO2 ở đây không nằm ở dạng tự do mà chúng
nằm ở dạng liên kết trong các khoáng. Vì vậy, để
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 4
sản xuất được sản phẩm gốm tường từ loại phế
thải này người ta phải gia công cơ học nhiều hơn
so với nguyên liệu từ đất dẻo.
Trong các khoáng Arghilit, Alevrolit hoặc
có thể trong sa thạch, ôxít nhôm (Al2O3) nằm ở
trạng thái liên kết, có hàm lượng thay đổi từ
5÷15% hoặc lớn hơn tùy thuộc địa tầng của khu
mỏ. Ôxít nhôm là thành phần chính hình thành
các khoáng Alumosilicat trong khi nung và ảnh
hưởng đến nhiệt độ kết khối và nhiệt độ nung của
sản phẩm, vì vậy, sự có mặt của chúng là cơ sở
khoa học để sử dụng loại phế thải này trong công
nghệ sản xuất gạch gốm tường.
- Ôxít sắt (Fe2O3) cũng có ở trong khoáng
Arghilit, Alevrolit và sa thạch với hàm lượng rất
cao. Thông thường Fe2O3 trong đất sét có tác
dụng giảm nhiệt độ nung, trong điều kiện nhiệt
độ nung cao sẽ là môi trường khử làm Fe2O3
chuyển thành FeO, hình thành các pha kết tinh
silicat sắt dễ chảy, có khả năng làm chặt cấu trúc
và tăng cường độ của xương gốm.
- Hàm lượng ôxít kiềm và kiềm thổ bao gồm
K2O; Na2O; BaO; CaO thường nằm ở dạng tạp chất
của các khoáng cuội kết, sét kết, bột kết. Hàm
lượng này làm giảm nhiệt độ nung, kéo dài khoảng
kết khối, từ đó làm tăng khả năng làm chặt xương
gốm, tăng được cường độ, độ bền của sản phẩm và
ảnh hưởng đến màu sắc của xương gồm.
Ngoài ra, khác với các khoáng đất sét
thông thường, các loại phế thải mỏ còn tồn tại
các hợp chất của lưu huỳnh ở dạng sunphát,
sunphít. Thành phần lưu huỳnh có ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng của xương gốm, như
các tạp chất lưu huỳnh ở dạng SO42- hoặc
SO32- nằm ở dạng muối sunphát, sunphít của
Mg, Ca hoặc các khoáng khác, các muối này
ngoài việc liên kết với lượng lớn H2O hoặc
tương tác với nước trong quá trình hyđrat (ủ,
đồng nhất phối liệu), hình thành các sản phẩm
mới kèm theo sự biến đổi thể tích, gây ra các
vết nứt, làm phá hoại cấu trúc của xương gốm,
giảm tính chất cơ học và cường độ sản phẩm
sau khi nung.
Bên cạnh đó, trong loại phế thải mỏ còn có
các chất hữu cơ, chiếm hàm lượng 10% ÷ 40%,
ảnh hưởng lớn đến các tính chất cơ học, khả năng
tạo hình, tính liên kết, tính chất gia công nhiệt và
cường độ của sản phẩm.
Các chất hữu cơ nằm ở trạng thái cứng,
giòn (than đá, đá phiến sét) và các hợp chất lưu
huỳnh là điểm khác biệt giữa nguyên liệu sản
xuất gồm tường từ các phế thải với nguyên liệu
đất sét dẻo.
Kết quả xác định thành phần khoáng cơ
bản của phế thải khai thác than khu mỏ Đông
Triều - Uông Bí, Hà Tu, Hà Lầm được thể hiện
trong bảng 1 và bảng 2. Bên cạnh đó, Thành phần
hóa học của phế thải khai thác than của khu mỏ
Đông Triều - Uông Bí, Hà Tu và Hà Lầm được
thể hiện trong bảng 3.
Bảng 1. Thành phần khoáng hóa của phế thải khai thác than ở một số khu mỏ Quảng Ninh.
STT Tên khoáng
Hàm lượng theo (%) khối lượng tại các khu mỏ
Đông triều Hà Tu Hà Lầm
1 Arghilit 70 ÷ 83 44 ÷ 62 51÷ 65
2 Alevrolit 7 ÷ 10 15 ÷ 17 16 ÷ 19
3 Cát kết 3 ÷ 6 5 ÷ 7 7 ÷ 10
4 Cacbonat 1 ÷ 4 2 ÷ 4 1 ÷ 3
5 Than có trong phế thải 6 ÷ 10 16 ÷ 28 11 ÷ 17
Bảng 2. Thành phần khoáng vật (%) của phế thải tại một số vùng mỏ khai thác than của Quảng Ninh
Khu vực Caolinit Hydro mica Clorit Thạch anh Felspat Gơtit Khoáng vật khác
Đông Triều 13 27 12 39 6 - Amfibol
Hà Tu 10 32 13 35 7 - Amfibol
Hà Lầm 15 22 10 37 6 6 Amfibol
Bảng 3. Thành phần hoá học (theo % khối lượng) của phế thải tại mỏ khai thác than Đồng Triều, Hà Tu
và Hà Lầm
Khu vực SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO Na2O K2O TiO2 SO3
Mất khi
nung
Đông Triều 66,72 12,56 7,85 4,56 0,95 2,3 1,16 0,95 0,45 2,5
Hà Tu 60,74 10,85 8,28 5,54 4,24 3,53 2,25 0,92 0,51 3,14
Hà Lầm 65,52 12,49 3,26 7,25 1,6 2,48 3,05 0,36 0,74 3,25
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 5
Từ kết quả thống kê trong các bảng 1, 2 và
3 cho thấy, phế thải trong khai thác than ở các
khu mỏ đều chứa khoáng Arghilit và Alevrolit
với hàm lượng rất lớn, có thể sử dụng để sản xuất
các loại vật liệu gồm tường. Đặc biệt, trong thành
phần của loại phế thải này chứa từ 6 ÷ 28% các
loại chất hữu cơ, có vai trò tạo ra trường nhiệt độ
nung ổn định hơn, giảm được nhiên liệu nung,
tạo ra sản phẩm gốm có chất lượng đồng đều
hơn, đặc biệt là quá trình gia công nhiệt trong lò
nung tuynel hoặc lò vòng.
Để xác định mối quan hệ giữa thành phần
hóa học của chất thải khai thách than chứa đất sét
và khả năng sử dụng chúng để sản xuất gạch gốm
tường cấu trúc đặc, trong nghiên cứu này đã sử
dụng sơ đồ của A.I.Avgustinhik [8, 9]. Biểu đồ
A.I.Avgustinhik được xây dựng dựa trên trục tung
là tỷ lệ mol của Al2O3 và SiO2, còn trục hoành biểu
diễn tổng số mol của các ôxít (CaO + MgO + Na2O
+ K2O + Fe2O3 + TiO2). Kết quả phân tích thành
phần mol được trình bày trong bảng 4 và biểu đồ
A.I.Avgustinhik được thể hiện trên hình 2.
Bảng 4. Thành phần hoá học (theo % mol) của phế thải khai thác than tại mỏ than Đồng Triều, Hà Tu
và Hà Lầm
Khu vực SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO Na2O K2O TiO2 Аl2O3/SiO2
(RO+R2O
+Fe2O3+TiO2)
Đông Triều 1,112 0,123 0,049 0,081 0,024 0,037 0,012 0,004 0,111 0,207
Hà Tu 1,012 0,106 0,052 0,099 0,106 0,057 0,024 0,004 0,105 0,342
Hà Lầm 1,092 0,122 0,020 0,129 0,040 0,040 0,032 0,002 0,112 0,263
Từ thành phần hóa học (theo % mol) (bảng
4), vị trí các chất thải khai thác than tại một số
mỏ than khác nhau của Tỉnh Quảng Ninh đã
được xác định và mô tả trên biểu đồ
A.I.Avgustinhik tại các điểm A, B và C
trên hình 2. Từ kết quả này đã chỉ rõ cả ba nguồn
đá thải của mỏ khai thác than Đồng Triều, Hà Tu
và Hà Lầm đều nằm trong khu vực nguyên liệu
để sản xuất gốm tường và gạch xây.
0,263
0,207
0,342
0,112
0,111
0,105
3
2
0,0
0,5
2
6
3
2
2
1
3
0,4
2
0,3
2
0,2
2
0,5
7
5
4
0,1
0,40,30,20,1
Ghi chú: 1 - Sản xuất gốm tinh và các sản phẩm
chịu lửa; 2 - Sản xuất ống dẫn nước, tấm lát nền;
3 - Sản xuất gạch và đồ gốm trang trí; 4 - Sản
xuất ngói; 5 - Sản xuất gạch clanhke; 6 - Sản xuất
gạch xây, gồm tường; 7 - Sản xuất keramzít.
Trong đó: А - chất thải khai thác than tại các mỏ
than Đông Triều.
B - chất thải khai thác than tại các mỏ
than Hà Tu.
C - chất thải khai thác than tại các mỏ
than Hà Lầm.
Hình 2. Các vùng đất sét để sản xuất vật liệu gốm (theo A.I.Avgustinhik)
4. CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT
Công nghệ sản xuất gạch gốm tường từ đá
thải mỏ được xác định trên cơ sở đặc tính, điều
kiện tồn tại, độ ẩm và thành phần của các loại
phế thải sử dụng làm nguyên liệu. Để sản xuất
gạch gốm tường cấu trúc đặc từ đá thải mỏ cần
phải lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp [10].
Hình 3 thể hiện sơ đồ công nghệ tương ứng 2
phương án công nghệ sản xuất gạch gốm tường
từ đá thải mỏ.
Trong hai phương án trên, phương pháp
ép bán khô được sử dụng hiệu quả hơn phương
pháp dẻo. Phế thải khai thác than thường có độ
ẩm thấp, lượng đất sét thêm vào có hàm lượng
nhỏ, do đó phối liệu sau khi nhào trộn có độ ẩm
tạo hình thấp, rất phù hợp với phương pháp tạo
hình bán khô. Trong phương pháp bán khô,
viên mộc sau khi chế tạo có thể không phải qua
công đoạn sấy hoặc sấy trong thiết bị sấy nung
kết hợp, vì vậy đã rút ngắn được quá trình công
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 6
nghệ, giảm chi phí về nhiên liệu, đồng thời cho phép tự động hóa trong quá trình sản xuất.
Hình 3. Phế thải có độ ẩm thấp, độ cứng lớn, hàm
lượng đất sét trong phế thải thấp. Sản phẩm được chế
tạo theo phương pháp dẻo
Hình 4. Phế thải có độ ẩm thấp, độ cứng lớn, đất sét
có chất lượng kém, không có tính dẻo, hàm lượng nhỏ.
Sản phẩm được chế tạo theo phương pháp bán khô.
Do đặc điểm nguồn nguyên liệu là đá thải mỏ có
độ cứng cao, khả năng kết dính tạo khối thấp và
có lẫn than, do đó, so với công nghệ sản xuất
gạch gốm tường bằng đất sét thông thường, công
nghệ sản xuất gạch gốm tường từ đá thải mỏ có
những khác biệt cơ bản sau:
- Do nguyên liệu là đá thải cứng, vì vậy
cần gia công đập hàm, tiếp đó qua máy nghiền
con lăn hoặc máy nghiền bi để tạo ra cấp hạt phối
liệu nhất định nhằm tăng khả năng tạo hình viên
mộc, tăng cường độ của xương gốm. Mặt khác,
do khả năng dính kết thấp, vì vậy để đảm bảo khả
năng tạo hình, phải đưa thêm vào một lượng đất
sét có vai trò là chất kết dính, chiếm khoảng 20 ÷
30% nguyên liệu, tùy thuộc vào thành phần của
đá thải [5, 6, 8].
- Sấy viên mộc có thể trong các thiết bị sấy
tuynel, sấy buồng, tuy nhiên vì đá thải có độ ẩm
thấp, độ co khi sấy nhỏ, do đó thời gian sấy
nhanh hơn, 10 giờ đến 18 giờ, nhiệt độ sấy 100 ÷
1500C. Thậm chí, với phương pháp bán khô, viên
mộc sau khi tạo hình có thể không cần sấy hoặc
sấy trong các thiết bị sấy nung kết hợp (lò nung
tuynel) với thời gian ngắn.
- Như các sản phẩm gốm tường thông
thường, loại sản phẩm này cũng được nung trong
lò nung tuynel, lò vòng. Tuy nhiên, do trong
thành phần phối liệu có một lượng than nhất
định, vì vậy ta có thể giảm lượng nhiên liệu đốt.
Để đảm bảo cho lượng than này cháy hoàn toàn
trong quá trình nung, phải đảm bảo lượng không
khí trong lò và thời gian hằng nhiệt kéo dài hơn.
5. KẾT LUẬN
1. Các sản phẩm gốm tường có thể được
sản xuất từ nguyên liệu là đá thải mỏ đáp ứng yêu
cầu. Do còn lượng than tồn trong nguyên liệu,
nên sau khi nung, lượng than này bị cháy hết,
không những giảm được khối lượng của gạch, mà
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 7
còn tăng khả năng cách âm, cách nhiệt của sản
phẩm, rất phù hợp để làm các loại vật liệu bao
che.
2. Quá trình sản xuất đơn giản, giảm được
nhiên liệu đốt, sản phẩm có chất lượng đồng đều,
giảm được thành phần nguyên liệu đất sét dẻo,
góp phần làm giảm diện tích chiếm đất của các
bãi thải mỏ.
3. Việc tái sử dụng các loại phế thải, xít
thải trong quá trình khai thác than có tác động rất
tích cực để tạo ra các loại vật liệu xây dựng thân
thiện, giảm thiểu sử dụng đất sét tự nhiên trong
sản xuất vật liệu gốm xây dựng và giảm chi phí
do nhu cầu tổ chức lưu trữ chất thải.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Грачева Ю. В., Глухова М. В. (2012)
“Результаты исследования возможности
использования глин Пензенских
месторождений в производстве стеновых
керамических материалов”. Часть 1. Интернет-
Вестник ВолгГАСУ. №2 (22). С.1–9.
[2]. Стороженко Г.И., Столбоушкин
А.Ю., Мишин М.П. (2013), “Перспективы
отечественного производства керамического
кирпича на основе отходов углеобогащения”,
Строительные материалы. 2013. № 4. С. 57–61.
[3]. Nguyễn Anh Tuấn, Hoàng Minh Hùng,
Nguyễn Hữu Nhân, Nguyễn Quốc Thịnh và nnk,
(2010), “Nghiên cứu sản xuất vật liệu xây dựng từ
xít thải các nhà máy tuyển than”, Thông tin Khoa
học công nghệ Mỏ, số 1. Tr. 57-63.
[4].
ews/303/18805/Chitiet.html
[5]. Vũ Minh Đức (2010), Sử dụng phế thải trong
công nghệ gốm. Bài giảng dành cho học viên Cao
học ngành Vật liệu Xây dựng, Trường đại học Xây
dựng, Hà Nội.
[6]. Vũ Minh Đức, (1999), Công nghệ Gốm Xây
dựng, Nhà xuất bản Xây dựng.
[7]. Лотош В.Е. Переработка отходов
природопользования. - Екатеринбург, 2007,
511 с.
[8]. Стороженко Г. И., Столбоушкин А.Ю.,
Перепечко Л.Н. (2015), “Переработка отходов
обогащения углей Коркинского угольного
разреза с целью получения топлива и сырья
для производства керамического кирпича”.
Горение топлива: теория, эксперимент,
приложения. Тезисы докладов IX
Всероссийской конференции с
международным участием, 16–18 ноября 2015
г. С. 127-129.
[9]. Поздив В.Н., Михальцевич В.В., Лященкол
А.П. (2001), Блочно-модульные установки для
обогащения высокозольных отходов
угледобычи, Уголь. 2001. №5. С.51-56.
[10]. Nguyễn Quốc Thịnh, Lê Hồng Dực. (2009),
“Nghiên cứu sản xuất gạch từ nguồn đá xít thải
của nhà máy tuyển than Cửa Ông”, Thông tin
khoa học công nghệ mỏ. 2009. №01. Tr. 75-80.