Nghiên cứu thiết lập qui trình chẩn đoán di truyền tiền làm tổ trên phôi người

Mục tiêu: Thiết lập qui trình xác định lệch bội nhiễm sắc thể (NST) trên phôi người làm TTTON bằng kĩ thuật FISH trên 5 NST (13, 18, 21 và X, Y) trong PGD. Phương pháp: Qui trình được xây dựng dựa trên các thử nghiệm trên 101 phôi có chất lượng xấu. Việc sinh thiết phôi được thực hiện trên phôi ngày 3 sau khi mở lỗ trên zona pellucida bằng hệ thống laser. Sau khi cố định phôi bào, quá trình lai được thực hiện với các mẫu dò ADN bằng phương pháp FISH. Các tín hiệu từ kính hiển vi huỳnh quang của các nhiễm sắc thể khảo sát được ghi nhận. Hiệu quả của qui trình được đánh giá trên kết quả thực hiện PGD trên 39 phôi có chất lượng tốt. Kết quả: Tỷ lệ phôi còn nguyên vẹn, tỷ lệ nhân tế bào còn sau cố định, tỷ lệ nhân tế bào có tín hiệu FISH lần lượt là 92,3%; 94,9% và 92,3%. Kết quả cho thấy 46,2% phôi có bất thường ở 1 trong 5 nhiễm sắc thể khảo sát. Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam thành công trong việc xây dựng qui trình sinh thiết phôi người giai đoạn ngày 3 sau thụ tinh và qui trình thực hiện FISH đơn bào để chẩn đoán lệch bội NST

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thiết lập qui trình chẩn đoán di truyền tiền làm tổ trên phôi người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 170 NGHIÊN CỨU THIẾT LẬP QUI TRÌNH CHẨN ĐOÁN DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ TRÊN PHÔI NGƯỜI Trương Thị Thanh Bình*, Nguyễn Thị Thu Lan*, Bùi Võ Minh Hoàng**, Đặng Quang Vinh***, Hồ Mạnh Tường***, Trương Đình Kiệt** TÓM TẮT Mục tiêu: Thiết lập qui trình xác định lệch bội nhiễm sắc thể (NST) trên phôi người làm TTTON bằng kĩ thuật FISH trên 5 NST (13, 18, 21 và X, Y) trong PGD. Phương pháp: Qui trình được xây dựng dựa trên các thử nghiệm trên 101 phôi có chất lượng xấu. Việc sinh thiết phôi được thực hiện trên phôi ngày 3 sau khi mở lỗ trên zona pellucida bằng hệ thống laser. Sau khi cố định phôi bào, quá trình lai được thực hiện với các mẫu dò ADN bằng phương pháp FISH. Các tín hiệu từ kính hiển vi huỳnh quang của các nhiễm sắc thể khảo sát được ghi nhận. Hiệu quả của qui trình được đánh giá trên kết quả thực hiện PGD trên 39 phôi có chất lượng tốt. Kết quả: Tỷ lệ phôi còn nguyên vẹn, tỷ lệ nhân tế bào còn sau cố định, tỷ lệ nhân tế bào có tín hiệu FISH lần lượt là 92,3%; 94,9% và 92,3%. Kết quả cho thấy 46,2% phôi có bất thường ở 1 trong 5 nhiễm sắc thể khảo sát. Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam thành công trong việc xây dựng qui trình sinh thiết phôi người giai đoạn ngày 3 sau thụ tinh và qui trình thực hiện FISH đơn bào để chẩn đoán lệch bội NST. Từ khóa: Thụ tinh ống nghiệm, chẩn đoán di truyền tiền làm tổ, FISH, lệch bội nhiễm sắc thể. ABSTRACT ESTABLISHING THE PROTOCOL FOR PREIMPLANTATION GENETIC DIAGNOSIS IN HUMAN EMBRYOS Truong Thi Thanh Binh, Nguyen Thi Thu Lan, Bui Vo Minh Hoang, Dang Quang Vinh, Ho Manh Tuong, Truong Dinh Kiet. * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 169 - 174 Objective: To establish the protocol for preimplantation genetic diagnosis in human embryos, using fluorescence in situ hybridization (FISH) in 5 chromosomes (13, 18, 21 and X, Y). Methods: The protocol was established through trials on 101 embryos with poor quality. Embryo biopsy was performed on day 3 through an opening on zona pellucida by laser. After fixing, hybridization was done with 5 probes. The signal of 5 chromosomes was detected under fluorescence microscope. The effectiveness of the established protocol was assessed based the application of PGD on 39 good quality embryos. Results: The rate of fully intact embryos after biopsy, intact cell after fixation and cells with FISH signals were 92.3%; 94.9% and 92.3%, respectively. There were 46.2% embryos with abnormal chromosomes. Conclusion: The protocol for embryo biopsy and fluorescent in situ hybridization on day 3 human embryos to diagnose aneuploidy was successfully established in Vietnam in this experimental study. Key words: invitro fertilization (IVF), preimplantation diagnosis genetics (PGD), fluorescence in situ * IVF Vạn Hạnh, **ĐH Y Dược TPHCM, *** Trung tâm nghiên cứu Di truyền và Sức khỏe sinh sản, khoa Y-ĐHQG TpHCM và Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TpHCM Tác giả liên lạc: ThS Trương Thị Thanh Bình ĐT: 0989.960903 Email: thanhbinhbct@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 171 hybridization (FISH), aneuploidy. ĐẶT VẤN ĐỀ Thuật ngữ “chẩn đoán di truyền tiền làm tổ” được dịch từ tiếng Anh “Preimplantation Genetic Diagnosis”, viết tắt là PGD. Năm 1990, PGD được thực hiện đầu tiên với phôi từ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) nhằm sàng lọc di truyền trên đối tượng phôi người. Kĩ thuật PGD dựa trên việc phát hiện các bất thường di truyền ở phôi và chỉ cấy trở lại vào buồng tử cung các phôi không có các bất thường về di truyền đã được chẩn đoán. Kĩ thuật này cho phép các cặp vợ chồng có nguy cơ truyền các bệnh lý di truyền cho con có cơ hội sinh con không mắc bệnh, mà không phải bỏ thai khi phát hiện bệnh lý thông qua chẩn đoán tiền sản. Hiện nay, nhiều trường hợp có chỉ định PGD để chẩn đoán bất thường số lượng và cấu trúc NST, cũng như một số bệnh lý đơn gen hay di truyền theo giới tính ở Việt Nam phải ra nước ngoài điều trị, với chi phí điều trị và chẩn đoán cho một trường hợp hơn 20.000 - 30.000 đô la Mỹ. Việc xây dựng qui trình PGD, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu triển khai áp dụng, có thể đáp ứng nhu cầu của nhân dân và góp phần cung cấp các dịch vụ y tế hiện đại đến được nhiều đối tượng bệnh nhân ở Việt Nam với chi phí thấp hơn và giảm hiện tượng “chảy máu” ngoại tệ do việc người dân phải đi nước ngoài để chẩn đoán và điều trị. Sự phát triển của PGD gắn liền với các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Hiện nay, ngành hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam đã có những bước tiến lớn và theo kịp trình độ các nước trong khu vực trong hầu hết các kĩ thuật. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào xây dựng thành công qui trình PGD trong điều kiện Việt Nam. Cùng với sự phát triển mạnh của các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam, việc xây dựng qui trình kĩ thuật PGD ở Việt Nam sẽ mở ra nhiều ứng dụng trong chẩn đoán di truyền, nâng cao chất lượng dân số và phát triển các công nghệ y - sinh học liên quan, góp phần đáp ứng nhu cầu của xã hội và sự phát triển của các lãnh vực liên quan ở Việt Nam. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thiết lập qui trình chẩn đoán di truyền phôi người giai đoạn tiền làm tổ. Đây là đề taì nghiên cứu cấp thành phố, do Sở Khoa học và Công nghệ TpHCM quản lý. Đơn vị chủ trì thực hiện là Đại học Y Dược TPHCM. Đơn vị phối hợp thực hiện bao gồm Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TPHCM và Bệnh viện Vạn Hạnh. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành trên các phôi thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) không sử dụng cho mục đích điều trị, tại khoa Hiếm muộn, bệnh viện Vạn Hạnh (IVF Vạn Hạnh) và được bệnh nhân đồng ý cho phôi bằng văn bản trong thời gian từ tháng 03/2009 đến tháng 08/2010. Cỡ mẫu Tỷ lệ bất thường NST ở phôi có chất lượng kém là 80%. Độ tin cậy 95%. Độ chính xác tuyệt đối là 10%. Cỡ mẫu trong nghiên cứu là 61 phôi. Chọn mẫu theo phương pháp tuần tự cho đến khi đủ mẫu. Nguồn thu thập là những phôi có chất lượng kém hay ngưng phát triển. Bệnh nhân sau khi được tư vấn và giải thích mục đích của nghiên cứu, nếu đồng ý cho phôi sẽ được hướng dẫn ký giấy đồng ý cho phôi, sau đó, phôi sẽ được đưa vào nghiên cứu. Phôi được đánh giá chất lượng vào ngày thứ ba sau thụ tinh trên kính hiển vi đảo ngược với độ phóng đại 300 lần. Theo đó, phôi được xem là có chất lượng xấu khi có từ 6 - 8 tế bào và tỉ lệ phân mảnh bào tương ≥ 15% thể tích phôi. Các phôi có 3 - 5 tế bào vào thời điểm kiểm tra được xem là phôi ngưng phát triển. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 172 Phương pháp tiến hành Thiết lập qui trình Qui trình sinh thiết phôi được xây dựng tại IVF Vạn Hạnh. Qui trình thực hiện FISH đơn bào gồm 4 công đoạn là (1) cố định tế bào, (2) lai tế bào, (3) rửa sau lai và (4) phân tích kết quả lai. Trong đó, công đoạn cố định tế bào được thực hiện tại IVF Vạn Hạnh, các công đoạn còn lại (từ số 2 đến 4) được xây dựng tại Phòng xét nghiệm di truyền, Đại học Y Dược TpHCM. Sinh thiết phôi Chuyển phôi cần sinh thiết từ đĩa nuôi cấy vào các giọt môi trường ISM1. Đặt đĩa sinh thiết lên bệ ấm của kính. Kích hoạt hệ thống tạo laser để tạo một lỗ thủng có kích thước 30 - 40µm trên màng trong suốt của phôi. Đưa kim sinh thiết áp vào phần lỗ thủng và hút từ từ 1 phôi bào cho đến khi phôi bào được hút hoàn toàn ra khỏi phôi. Nhả phôi bào vừa hút vào môi trường. Rửa phôi sau sinh thiết một vài lần trong môi trường ISM1, chuyển phôi vào môi trường cấy để tiếp tục theo dõi khả năng sống và phát triển. Thực hiện FISH đơn bào Cố định phôi bào Dùng Pasteur pipette chuyển phôi bào vào giếng thứ 1 của hộp 4 giếng chứa dung dịch nhược trương trong 5 - 10 giây. Chuyển phôi bào sang giếng thứ 2 chứa dung dịch trải trong 30 giây. Chuyển phôi bào lên vị trí đã đánh dấu trên lam kính, cùng với 2-3µl dung dịch trải, để khô tự nhiên. Nhỏ từng giọt dung dịch cố định lên vùng có phôi bào. Lặp lại vài lần đến khi phần bào tương tan hoàn toàn, chỉ còn lại nhân tế bào. Nhúng lam mẫu vào dung dịch 2xSSC trong 2 phút. Nhúng lam mẫu lần lượt vào dung dịch ethanol 70%, 85% và 100% lạnh (4oC) trong 2 phút/dung dịch. Để khô hoàn toàn trong không khí. Quan sát vị trí của nhân dưới kính hiển vi có vật kính phản pha. Lai tế bào Lấy mẫu dò ADN MultiVysion từ -20oC và để ở nhiệt độ phòng 5-10 phút trước khi sử dụng. Cho 1µl dung dịch mẫu dò lên vùng nhân tế bào trên lam kính. Phủ một miếng lam phủ 3x3mm2 và 1 miếng parafilm 5x5mm2. Đặt các lam mẫu và lam mẫu đối chứng vào máy lai và khởi động chương trình lai. Khi chương trình kết thúc, lấy các lam mẫu ra khỏi máy. Rửa sau lai Tháo bỏ parafilm và lam phủ, nhúng lam mẫu vào lọ coplin chứa dung dịch rửa I (0,4xSSC /0,3% NP-40) ở 73oC trong 2 phút. Chuyển lam mẫu sang lọ coplin chứa dung dịch rửa II (2xSSC /0,1% NP-40) ở nhiệt độ phòng trong 1 phút. Lấy lam mẫu ra và đặt lam dựng đứng trong vùng tối cho đến khi khô hoàn toàn. Nhỏ 2µl Antifade II lên vùng có nhân tế bào, đặt miếng lam phủ 5x5mm2 lên. Hàn các mép của lam phủ bằng sơn móng tay không màu. Phân tích kết quả Đặt lam mẫu lên kính và tìm vị trí của tế bào bằng vật kính phản pha có độ phóng đại thấp. Bật nguồn sáng huỳnh quang và sử dụng lọc màu xanh lơ (Spectrum Aqua). Chuyển qua vật kính x100 và điều chỉnh ốc vi cấp của kính để tìm lại vị trí của nhân tế bào. Phân tích tín hiệu màu xanh lơ (NST 18). Đổi lọc màu lần lượt để phân tích các tín hiệu màu xanh dương (NST X), màu vàng (NST Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 173 Y), màu xanh lá cây (NST 21) và màu đỏ (NST 13). KẾT QUẢ Trong quá trình xây dựng qui trình kĩ thuật, chúng tôi nhận được 101 phôi có chất lượng xấu hoặc ngưng phát triển. Trong nghiên cứu, chúng tôi đã lần lượt thực hiện qui trình cố định tế bào theo phác đồ của đại học Chiangmai, Thái Lan (phác đồ A), phác đồ của trung tâm Shady Grove (phác đồ B) và phác đồ cải tiến của chúng tôi (phác đồ C). Kết quả cho thấy phác đồ C cho thấy tỷ lệ nhân tế bào có tín hiệu sau FISH cao hơn (62,5% so với 47,5% và 33,3%). Ngoài ra, nhiều qui trình chi tiết trong các bước thực hiện PGD cũng đã được hoàn thiện trong các thực nghiệm này. Ngoài 101 phôi chất lượng xấu hoặc ngưng phát triển theo tiêu chuẩn nhận mẫu, chúng tôi cũng thu thập được 39 phôi có chất lượng khá và tốt. Đây là những phôi có chất lượng khá/tốt được trữ lạnh và bệnh nhân đồng ý cho nghiên cứu vì không còn nhu cầu sử dụng. Chúng tôi tiến hành sinh thiết tế bào và thực hiện qui trình FISH đơn bào theo phác đồ đã được chuẩn hóa trước đó nhằm đánh giá hiệu quả qui trình kĩ thuật đã được xây dựng. Các chỉ số kĩ thuật chuyên môn được trình bày trong bảng 1. Bảng 1: Hiệu quả qui trình kĩ thuật Số lượng Tỉ lệ (%) Số phôi được sinh thiết 39 Số phôi có phôi bào còn nguyên vẹn sau sinh thiết 38 97,4 Số phôi tiếp tục phát triển sau sinh thiết 36 92,3 Số phôi bào nguyên vẹn sau sinh thiết 38 97,4 Số nhân tế bào còn sau cố định 37 94,9 Số nhân tế bào có tín hiệu sau FISH 36 92,3 Tỉ lệ lệch bội NST được tính trên tổng số 80 nhân tế bào có tín hiệu, với 46,2% phôi được ghi nhận có số lượng NST bất thường (bảng 2). Bảng 2: Tỉ lệ bất thường NST ở các nhóm phôi khác nhau Số lượng bất thường NST Tỉ lệ Phôi khá/tốt 15/36 41,6 Phôi chất lượng xấu 15/32 46,9 Phôi ngừng phát triển 7/12 58,3 Tổng cộng 37/80 46,2 BÀN LUẬN PGD là một qui trình phức tạp, gồm nhiều công đoạn, kết hợp nhiều kĩ thuật, công nghệ cao và đòi hỏi kiến thức cũng như kỹ năng thuần thục của các chuyên gia thuộc lãnh vực hỗ trợ sinh sản và chẩn đoán di truyền. Đây là đề tài đầu tiên được thực hiện nhằm thiết lập qui trình kĩ thuật trong chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD) các phôi TTTON trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Trong phần bàn luận này, các vấn đề như nguồn vật liệu sử dụng cho PGD, phương pháp sinh thiết phôi, các phác đồ cố định tế bào, hiệu quả của qui trình kĩ thuật được xây dựng, và ý nghĩa của đề tài sẽ được lần lượt đề cập. Nguồn vật liệu di truyền Việc tiến hành chẩn đoán di truyền có thể được thực hiện thông qua sinh thiết (1) thể cực của noãn, (2) tế bào từ phôi đang phân chia vào ngày 3 hay (3) tế bào lá nuôi của phôi nang vào ngày 5 sau thụ tinh. Số liệu báo cáo từ những nghiên cứu lớn trên thế giới về PGD cho thấy có trên 90% các chu kỳ PGD được thực hiện thông qua việc sinh thiết phôi ngày 3 sau thụ tinh(2,4,5,7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời điểm này cũng thuận lợi cho nghiên cứu trong việc lấy mẫu do các trung tâm TTTON ở Việt Nam đều chuyển phôi vào ngày 2/3 sau khi thụ tinh, do đó, một khi được đưa vào áp dụng sẽ mang tính thực tế và phù hợp với tình hình hiện nay của chúng ta. Sinh thiết phôi Để có thể lấy tế bào ra ngoài tiến hành chẩn đoán di truyền, một lỗ thủng trên màng trong suốt (ZP) cần được hình thành. Có 3 phương pháp tạo lỗ thủng trên ZP: (1) laser không tiếp xúc, (2) dung dịch Tyrode có tính acid và (3) xé Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Sức khỏe Sinh sản và Bà Mẹ - Trẻ em 174 màng bằng kim vi thao tác. Laser không tiếp xúc hiện nay là phương pháp được khuyến khích do tính đơn giản, chính xác và an toàn của kĩ thuật(4,5,7). Việc sử dụng tia laser gặp nhiều thuận lợi do chúng tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc áp dụng kĩ thuật hỗ trợ phôi thoát màng bằng hệ thống laser cho các qui trình điều trị thường qui của thụ tinh trong ống nghiệm. Qui trình thực hiện FISH đơn bào Qui trình thực hiện FISH trong PGD bao gồm (1) cố định, (2) lai tế bào, (3) rửa sau lai và (4) phân tích kết quả lai. Mục tiêu của cố định tế bào là nhằm loại bỏ các tế bào chất xung quanh, chuẩn bị cho nhân có điều kiện tốt nhất để phản ứng lai xảy ra. Khác với chẩn đoán tiền sản từ tế bào nước ối, trong PGD, chúng ta chỉ có 1 tế bào để tiến hành chẩn đoán di truyền, do đó không để mất và xử lý tế bào tốt là điều cần thiết. Trong giai đoạn đầu thực hiện, các phôi bào sau khi sinh thiết được cố định hoàn toàn theo phác đồ của Đại học Chiangmai, Thái lan (phác đồ A) và trung tâm Shady Grove, Mỹ (phác đồ B). Tuy nhiên, tỷ lệ nhân tế bào có tín hiệu sau FISH thu được rất thấp (33,3% và 47,5%). Do đó, chúng tôi đã điều chỉnh qui trình dựa trên hai phác đồ trên (phác đồ C). Với phác đồ C, có 62,5% phôi bào có tín hiệu sau FISH. Sự khác biệt giữa ba phác đồ này chủ yếu nằm ở khâu khử nước. Hiệu quả qui trình Cỡ mẫu tối thiểu được tính là 61 phôi chất lượng kém/ngưng phát triển, tuy nhiên, chúng tôi đã sử dụng 101 phôi vào nghiên cứu nhằm xây dựng qui trình. Việc đánh giá hiệu quả qui trình kĩ thuật được chúng tôi thực hiện trên 39 phôi có chất lượng khá/tốt sau trữ lạnh. Chúng tôi chủ yếu đối chiếu các thông số kĩ thuật của nghiên cứu với báo cáo lần thứ X về tình hình thực hiện PGD trên toàn châu Âu, ESHRE(3). Đây được xem là số liệu về PGD lớn nhất hiện nay trên thế giới. Qui trình sinh thiết phôi Hiệu quả của qui trình được đánh giá thông qua (1) tỉ lệ phôi bào còn nguyên sau sinh thiết, (2) tỉ lệ phôi còn sống sau sinh thiết và (3) tỉ lệ phôi tiếp tục phát triển sau 24 tiếng. Kết quả cho thấy tỉ lệ phôi và tỉ lệ tế bào còn nguyên sau sinh thiết lần lượt là 97,4% và 97,4%. Theo báo cáo của ESHRE, tỉ lệ tế bào còn nguyên sau sinh thiết là 98,7%(3). Chúng tôi tiếp tục nuôi cấy phôi 24 tiếng trong điều kiện 37oC, 6% CO2 và nồng độ oxy sinh lý. Có 36 phôi tiếp tục phát triển đến giai đoạn 10-12 tế bào hay bắt đầu có hiện tượng nén (compacting), đạt tỉ lệ 92,3%. Tỉ lệ này tương đương với khả năng phôi phát triển in vitro và không thực hiện sinh thiết phôi trước đó. Qui trình FISH đơn bào Để đánh giá hiệu quả qui trình kĩ thuật thực hiện FISH đơn bào, chúng tôi dựa vào tỉ lệ tế bào còn sau cố định và tỉ lệ nhân tế bào có tín hiệu sau FISH. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhân tế bào còn sau cố định là 94,9%. Kết quả của một số báo cáo lớn cho thấy tỉ lệ này dao động trong khoảng 93,9% - 99%(1,6,8). Kết quả nghiên cứu cho thấy 92,3% nhân tế bào có tín hiệu FISH. Con số này trong một nghiên cứu trên 1,255 phôi của Marquez và cộng sự năm 2000 là 93%. Theo báo cáo ESHRE trên tổng số 125,187 phôi sinh thiết, con số này là 94,1%(3). Các số liệu trên cho thấy qui trình kĩ thuật thực hiện FISH đơn bào của chúng tôi đạt hiệu quả cao tương đương các báo cáo lớn trên thế giới. Ý nghĩa ứng dụng của đề tài Đây là đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm xây dựng qui trình kĩ thuật trong chẩn đoán di truyền tiền làm tổ các phôi TTTON trong tình hình thực tế của Việt Nam. Sự thành công của đề tài đã góp phần khẳng định khả năng của đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam trong việc tiếp cận các kĩ thuật điều trị tiên tiến hiện đại trên thế giới. Ngoài ra, việc liên kết, tập hợp được các chuyên viên, nhà khoa học đầu ngành tại Việt Nam trong các lãnh vực liên quan, cũng như việc phối hợp được cơ sở, thiết Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 175 bị vật chất của nhiều phòng thí nghiệm tại các đơn vị khác nhau (đại học Y Dược TpHCM, Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TpHCM, IVF Vạn Hạnh) để thực hiện đề tài là một thành công lớn của nhóm thực hiện đề tài. Một khi được phép ứng dụng vào cho điều trị, PGD có thể giúp cho các cặp vợ chồng có tiền sử sanh con bất thường di truyền, tiền căn sảy thai liên tiếp hay những phụ nữ có nguy cơ cao có thể có con bình thường. Khi đó, gánh nặng chi phí điều trị cho bệnh nhân sẽ được giảm đáng kể, cũng như hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ do bệnh nhân phải đi điều trị ở nước ngoài. Đề tài đã được hội đồng khoa học của Sở Khoa học Công nghệ TpHCM nghiệm thu vào tháng 01/2011. Tuy nhiên, việc triển khai PGD trong thực tế lâm sàng cần phải đuợc hết sức được lưu ý và cân nhắc. Để có thể có nguồn vật liệu cho việc chẩn đoán di truyền, điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được một qui trình TTTON ổn định và hiệu quả cao. Kỹ năng thao tác của nhân viên trong hai qui trình sinh thiết phôi và cố định tế bào đóng vai trò quan trọng. Các phôi sau sinh thiết sẽ được theo dõi tiếp và chuyển vào buồng tử cung của người phụ nữ, do đó, quá trình sinh thiết phôi phải được thực hiện nghiêm ngặt để không ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của các phôi bào còn lại. Theo hướng dẫn của hiệp hội PGD thuộc Hội Sinh sản người và Phôi học châu Âu năm 2011, cần có những điều kiện qui định cho nhân viên thực hiện sinh thiết phôi và FISH đơn bào(4,5). Ngoài ra, việc thực hiện PGD cũng có thể gặp phải một tỉ lệ sai số nhất định. Ngay cả một trung tâm PGD hiệu quả cũng có tỉ lệ sai số vào khoảng 10%(7). Điều này có thể dẫn đến tình trạng bỏ sót phôi hay chuyển lầm phôi cho bệnh nhân. Do đó, việc giáo dục sức khỏe sộng đồng và thông tin cho cán bộ y tế về phạm vi và khả năng ứng dụng, cũng như hậu quả của các sai số có thể xảy ra của kĩ thuật là rất cần thiết trước khi có thể áp dụng triển khai PGD tại Việt nam. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã thành công trong việc xây dựng qui trình sinh thiết phôi người ở giai đoạn phân chia và qui trình thực hiện kĩ thuật FISH đơn bào để chẩn đoán lệch bội nhiễm sắc thể 13, 18, 21, X và Y. Các thông số kĩ thuật của các qui trình được xây dựng đều tương đương và phù hợp với các số liệu báo cáo lớn nhất về PGD trên y văn thế giới. Thành công của đề tài đã mở ra một hướng