Nghiên cứu tình hình lưu trữ và sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người nông dân huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ năm 2012

Đặt vấn đề: Hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) được sử dụng trong nông nghiệp ngày càng nhiều về số lượng và chủng loại, vì vậy kéo theo nhiều nguy cơ cho con người và môi trường. Riêng tại bệnh viện Đa khoa Cần Thơ, 6 tháng đầu năm 2012 đã có 56,14% trường hợp ngộ độc, nhiễm độc liên quan đến HCBVTV. Do đó, cần đảm bảo việc sử dụng HCBVTV ở những người nông dân đạt an toàn và hiệu quả. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ nông dân có kiến thức, thực hành đúng về lưu trữ và sử dụng HCBVTV trong năm 2012. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 324 người nông dân trực tiếp sử dụng HCBVTV. Kết quả: Tỉ lệ nông dân có kiến thức lưu trữ đúng là 20,4%, sử dụng đúng là 20,4%; tỉ lệ nông dân có thực hành lưu trữ đúng là 32,7% và sử dụng là24,4%. Có 14,5% đối tượng hoàn toàn không sử dụng bất kì loại bảo hộ lao động nào và tỉ lệ nông dân bị ảnh hưởng bởi HCBVTV là 50,9%. Kết luận: Kiến thức và thực hành đúng về lưu trữ và sử dụng HCBVTV của người nông dân còn thấp. Việc sử dụng HCBVTV cũng có những tác động rõ rệt đến sức khỏe của người sử dụng.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tình hình lưu trữ và sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật của người nông dân huyện Phong Điền, Thành phố Cần Thơ năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  87 NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH LƯU TRỮ VÀ SỬ DỤNG HÓA CHẤT BẢO VỆ  THỰC VẬT CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN HUYỆN PHONG ĐIỀN,   THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2012  Cao Thị Lựu*, Phan Thị Trung Ngọc**, Tô Minh Ngọc*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) được sử dụng trong nông nghiệp ngày càng nhiều về số  lượng và chủng loại, vì vậy kéo theo nhiều nguy cơ cho con người và môi trường. Riêng tại bệnh viện Đa khoa  Cần Thơ, 6 tháng đầu năm 2012 đã có 56,14% trường hợp ngộ độc, nhiễm độc liên quan đến HCBVTV. Do đó,  cần đảm bảo việc sử dụng HCBVTV ở những người nông dân đạt an toàn và hiệu quả.  Mục  tiêu: Xác định tỉ lệ nông dân có kiến thức, thực hành đúng về lưu trữ và sử dụng HCBVTV trong  năm 2012.  Phương  pháp  nghiên  cứu: Nghiên  cứu  cắt ngang mô  tả  trên 324 người nông dân  trực  tiếp  sử dụng  HCBVTV.  Kết quả: Tỉ lệ nông dân có kiến thức lưu trữ đúng là 20,4%, sử dụng đúng là 20,4%; tỉ lệ nông dân có thực  hành lưu trữ đúng là 32,7% và sử dụng là24,4%. Có 14,5% đối tượng hoàn toàn không sử dụng bất kì loại bảo  hộ lao động nào và tỉ lệ nông dân bị ảnh hưởng bởi HCBVTV là 50,9%.  Kết  luận: Kiến thức và thực hành đúng về lưu trữ và sử dụng HCBVTV của người nông dân còn thấp.  Việc sử dụng HCBVTV cũng có những tác động rõ rệt đến sức khỏe của người sử dụng.  Từ khóa: Hóa chất bảo vệ thực vật, kiến thức, lưu trữ, thực hành, sử dụng.  ABSTRACT  STORAGE AND USAGE OF PESTICIDES AMONG FARMERS IN PHONG DIEN DISTRICT, CAN  THO CITY, 2012  Cao Thi Luu, Phan Thi Trung Ngoc, To Minh Ngoc  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 97 – 92  Background:There has been  a  steady  increase  in  the amount  of pesticides marketed  for  agricultural use,  which can pose risks to human health and the environment. In the first six months of 2012, 56.14 % of poisoning  cases admitted to Can Tho General Hospital were pesticide‐poisoning cases. Therefore, it is important to ensure  that farmers know how to use pesticides safely and effectively.  Objectives:  To  determine  the  proportion  of  farmers with  good  knowledge  and  practice  associated with  pesticide use and storage in 2012.  Methods: A cross‐sectional study was conducted at six communes in Phong Dien district, Can Tho city.  324 farmers were interviewed and observed.   Results: The proportions of participants with good knowledge, practice on  storing, using pesticides were  20.4%, 20.4%, 32.7% and 24.4% respectively. 14.5% of participants did not wear any protective clothing and  equipment. About 51% of subjects reported health problems related to exposure to pesticides.  Conclusion: The proportions of farmers with good knowledge and practice associated with pesticide use and  * Ban phát triển dự án nghiên cứu khoa học, Leafshield Group   ** Khoa Y Tế Công Cộng, Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ  Tác giả liên lạc : CN. Cao Thị Lựu    ĐT : 0907301407     Email : caoluu87@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 88 storage were low. Pesticides affect farmers’ health.  Keywords: pesticides, knowledge, practice.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Dân số  liên tục gia tăng, đồng  thời sinh vật  phá hoại nông sản ngày càng đa dạng về loài và  số  lượng  đã  đặt  ra  yêu  cầu  cho  ngành  nông  nghiệp  trong  việc  đảm  bảo  vai  trò  cung  cấp  lương thực thực phẩm. Do đó sử dụng HCBVTV  là một  trong  những  biện  pháp  kĩ  thuật  quan  trọng  được  ngành  nông  nghiệp  áp  dụng  phổ  biến hiện nay. Từ khi sử dụng cho đến nay, các  loại HCBVTV  được  sử dụng không ngừng gia  tăng về số  lượng  lẫn tính đa dạng và phức tạp.  Song song với việc gia tăng sử dụng HCBVTV là  sự gia tăng tai nạn nghề nghiệp, các trường hợp  ngộ  độc  và  các  bệnh  ung  thư  liên  quan  đến  HCBVTV. Trên  thế giới  ước  tính  có khoảng 39  triệu người  có  thể bị ngộ độc mãn và  cấp  tính  hàng năm do sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật  trong nông nghiệp(4). Tại Việt Nam năm 2009 có  4.372  vụ  nhiễm  độc  với  4.515  trường  hợp,  tử  vong  138  trường  hợp  chiếm  tỷ  lệ  3,05%(2).  Tại  bệnh  viện  đa  khoa  thành  phố  Cần  Thơ  trong  tổng  số  171  trường  hợp  ngộ  độc,  nhiễm  độc  chung nhập viện có đến 96 trường hợp ngộ độc,  nhiễm  độc do hóa chất bảo vệ  thực vật  (chiếm  56,14%)(1).  Trong  khi  đó,  huyện  Phong  Điền  là  huyện có tỉ trọng ngành nông nghiệp cao, nằm ở  vị trí giao thông quan trọng, giáp 5/8 huyện còn  lại và là nguồn cung cấp nông sản lớn của thành  phố. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này  với mong muốn biết được tỉ lệ nông dân có kiến  thức,  thực  hành  đúng  về  lưu  trữ  và  sử  dụng  HCBVTV  nhằm  làm  cơ  sở  cho  các  biện  pháp  giảm  thiểu  tác  hại  của HCBVTV  lên  sức  khỏe  cộng đồng và môi trường.  ĐỐI  TƯỢNG ‐ PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN  CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Nghiên  cứu  thực  hiện  trênngười  nông  dân  trực  tiếp sử dụng các  loại HCBVTV  tại 6 xã của  huyện  Phong  Điền,  thành  phố  Cần  Thơ  năm  2012.  Loại  trừ  các  đối  tượng  từ  chối  tham  gia  nghiên  cứu hoặc không  đủ khả năng giao  tiếp,  không gặp được đối tượng sau ít nhất hai lần ghé  thăm và những đối tượng được khoán lao động.  Cỡ mẫu nghiên cứu  Cỡ mẫu được  tính  theo phương pháp dành  cho nghiên cứu cắt ngang mô tả:   N = [ σ2]/d2 Giả định giá trị σ được ước  lượng dựa theo  nghiên cứu của K’Vởi trên 201người trồng rau ở  Đà Lạt có 27% đối tượng có thực hành an toàn.  Độ chính xác mong muốn là 2,5 với mức ý nghĩa  thống kê 0,05 và dự trù 10%, do đó, cỡ mẫu cần  khảo sát là 336 đối tượng(5).  Phương pháp nghiên cứu  Nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả  với  phương  pháp chọn mẫu cụm, đơn vị cụm  là ấp. Dữ  liệu  thu thập qua quá trình phỏng vấn trực tiếp người  nông dân và bảng kiểm quan sát thực hành, sau  đó  được  nhập  bằng  phần mềm EpiData  3.1  và  phân tích bằng phần mềm Stata 11.0.  Kiến thức đúng về lưu trữ HCBVTV là biến  định  tính, được xác định dựa  theo số điểm đạt  được  qua  việc  trả  lời  các  biến A6, A7.1, A7.2,  A7.3, A7.4, A7.5 trong bộ câu hỏi. Tổng hợp kiến  thức  chung  “đúng”  khi  trả  lời  đúng  tất  cả  các  câu hỏi về kiến  thức nêu  trên, nghĩa  là  được 6  điểm cho tất cả các biến, nếu trả lời <6 điểm thì  xem như  là  “chưa  đúng”. Thực hành  đúng về  lưu  trữ HCBVTV:  là  biến  định  tính,  được  xác  định dựa  theo  số  điểm  đạt  được qua khảo  sát  bằng  bảng  kiểm.  Tổng  hợp  thực  hành  lưu  trữ  HCBVTV chung “đúng” khi có thực hành đúng  tất  cả  các  yêu  cầu  nêu  trên,  nghĩa  là  được  11  điểm cho tất cả các biến, nếu được <11 điểm xem  như “chưa đúng”.  Kiến  thức  đúng  về  sử  dụng  HCBVTV:  là  biến định tính, được xác định dựa theo số điểm  đạt được qua việc trả lời các biến A1, A2, A3, A4,  A5 trong bộ câu hỏi. Tổng hợp kiến thức chung  “đúng” khi trả lời đúng tất cả các câu hỏi về kiến  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  89 thức nêu  trên, nghĩa  là  được 5  điểm  cho  tất  cả  các  biến,  nếu  trả  lời  <5  điểm  thì  xem  như  là  “chưa  đúng”.  Thực  hành  đúng  về  sử  dụng  HCBVTV:  là biến định tính, được xác định dựa  theo số điểm đạt được qua trả lời các biến ở mục  B trong bộ câu hỏi. Tổng hợp thực hành sử dụng  HCBVTV “đúng” khi có  thực hành đúng  tất cả  các yêu cầu nêu trên, nghĩa là được 17 điểm cho  tất  cả  các  biến,  nếu  được  <17  điểm  xem  như  “chưa đúng”.  KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Đặc điểm đối tượng nghiên cứu  Kết quả khảo  sát  trên  324 người nông dân  cho thấy đối tượng có độ tuổi trung bình là 48,68  ± 12,66  tuổi, với 76,5% đối  tượng có độ  tuổi  từ  31‐60 tuổi. Tuy không có đối tượng dưới 18 tuổi  nhưng  tỉ  lệ người phun  thuốc  trong nhóm >60  tuổi  tương đối cao do đó  làm gia  tăng nguy cơ  xảy ra các vấn đề sức khỏe trong khảo sát này. Tỉ  lệ  này  cũng  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Trương  Công  Đạt  ở  huyện  Kiến  Xương,  tỉnh  Thái Bình năm 2008 với tỉ lệ 7%(8).  Theo  giới  tính,  đối  tượng  trong nghiên  cứu  này có tỉ lệ nam giới là 97,5%, kết quả này cao hơn  so với nghiên cứu của Đặng Phước Bảo Quốc ở  Kế  Sách,  Sóc Trăng năm  2008  là  85,5% nam  và  14,5% là nữ. Tuy nhiên có sự khác biệt này có thể  do nghiên cứu của Đặng Phước Bảo Quốc chọn  đại diện bất kỳ trong độ tuổi lao động của mỗi hộ  nông  dân mà  không  cần  là  người  trực  tiếp  sử  dụng hóa chất bảo vệ thực vật(3).  Về học vấn của người nông dân, có 4,9% đối  tượng  không  biết  chữ,  cấp  1  là  33,3%,  cấp  2  là  45,4%, cấp 3 là 15,1% và trình độ trung cấp trở lên  là 1,2%. So với kết quả của Đặng Phước Bảo Quốc  tỉ lệ học vấn cấp 2 và cấp 3 đều lần lượt thấp hơn  là 67,1% và 17,1%. Bên cạnh đó ở nghiên cứu này  tỉ  lệ không biết chữ cũng cao hơn so với nghiên  cứu  của  Đặng  Phước  Bảo Quốc  và  Trần  Tuấn  Khanh là đều không có đối tượng nào không biết  chữ.  Tuy  nhiên  có  1,2%  đối  tượng  có  trình  độ  trung cấp  trở  lên  (3, 6). Điều này có ý nghĩa quan  trọng cho việc lý giải khoảng cách về kiến thức và  thực hành của đối tượng.  Kiến thức, thực hành về lưu trữ hóa chất  bảo vệ thực vật  Đối tượng có kiến thức chung đúng về lưu  trữ HCBVTV  là 20,4% và  có  thực hành  chung  đúng  về  lưu  trữ  HCBVTV  là  32,7%.  Trong  phạm vi kiến thức của người nông dân về  lưu  trữ  HCBVTV,  có  95,1%  đối  tượng  nhận  biết  được rằng cách bảo quản HCBVTV có  thể gây  ảnh hưởng đến sức khỏe của gia đình; có 56,8%  hộ biết  cần bảo quản HCBVTV  ở nơi  cao  ráo,  57,7%  hộ  biết  cần  bảo  quản  nơi  thoáng mát,  50,3%  hộ  biết  cần  bảo  quản  xa  nơi  sinh  hoạt  hoặc nguồn nước.   Trong phạm vi thực hành lưu trữ HCBVTV,  do  các hộ nông dân  được khảo  sát  chủ yếu  là  canh  tác quy mô nhỏ và vừa nên  có  24,4% hộ  mua và sử dụng hết HCBVTV trong ngày và do  đó không có hóa chất lưu trữ lại; trong số những  hộ  có  lưu  trữ  lại  qua  ít  nhất một  đêm  thì  có  21,3% hộ có kiểm tra nơi  lưu trữ thường xuyên  và 9,6% hộ không bao giờ kiểm  tra nơi  lưu  trữ  HCBVTV. Đối với  thực hành  lưu  trữ  riêng biệt  với các hóa chất hoặc sản phẩm khác, có 77,1%  hộ đáp ứng được yêu cầu này, số còn lại chủ yếu  lưu trữ chung với các loại phân bón. Đồng thời,  về yêu cầu nơi lưu trữ hóa chất cũng có 75,1% hộ  đảm  bảo  lưu  trữ  hóa  chất  ngoài  nhà,19,2%  hộ  lưu trữ mà không có biện pháp an toàn khỏi các  loại  động  vật  quanh  nhà,  83,7%  lưu  trữ  ở  nơi  tránh được tầm với của trẻ em, 88,2% lưu trữ nơi  cao ráo không ngập nước. Tỉ lệ thực hành này tốt  hơn so với các đối  tượng  trong nghiên cứu của  Đặng Phước Bảo Quốc ở Kế Sách, Sóc Trăng  là  34,2% còn  lưu  trữ  trong nhà(3). Tuy những  tỉ  lệ  thực hành này không thấp nhưng vẫn chưa đảm  bảo được an toàn cho con người và môi trường  sinh  thái.  Tuy  nhiên,  các  thực  hành  này  phụ  thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế gia đình và ý  thức của người sử dụng.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 90 Kiến thức, thực hành về sử dụng hóa chất  bảo vệ thực vật  Tỉ  lệ  người  nông  dân  có  kiến  thức  chung  đúng về sử dụng HCBVTV  là 20,4% và có thực  hành  chung  đúng  về  sử  dụng  HCBVTV  là  24,4%.  Đối  với  hiểu  biết  về  việc  sử  dụng  HCBVTV của người nông dân, kết quả khảo sát  cho  thấy  có  52,2%  không  biết  bất  kì  loại  HCBVTV bị cấm hoặc hạn chế sử dụng nà. Tỉ lệ  hiểu biết đúng  thấp hơn so với nghiên cứu của  Nguyễn Tuấn Khanh ở Thái Nguyên là 61,0% có  biết  ít nhất một  loại hóa chất bị cấm sử dụng(6).  Điều  này  có  thể  là một  trong  những  nguyên  nhân làm tăng nguy cơ nhiễm độc hóa chất bảo  vệ thực vật mà ít được chú ý hơn trong quá trình  giáo dục sức khỏe cho người dân. Để đảm bảo  an toàn khi phun lúc trời có gió, 94,5% đối tượng  cho  rằng  nên  thực  hiện  phun  trên  gió  hoặc  ngang gió, tỉ lệ biết nên phun xuôi chiều gió của  đối  tượng  trong khảo sát này cao hơn nhiều so  với  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Tuấn  Khanh  là  44,4%(6).  Trong  việc  xác  định  lượng  hóa  chất  phun  trên một  đơn  vị  diện  tích,  có  91,0%  đối  tượng cho biết nên dựa trên hướng dẫn của bao  bì, 2,5% cho rằng dựa vào lời hướng dẫn từ các  nông dân khác,  tuy nhiên vẫn còn  tới 6,5% cho  rằng chỉ cần pha dựa  theo ước  lượng cảm  tính  của cá nhân. Kết quả ở khảo sát này cao hơn so  với  nghiên  cứu  của Trần Bình Thắng  là  88,0%  pha thuốc theo hướng dẫn(7). Vì  lượng hóa chất  chưa qua pha  loãng sử dụng khi phun cũng có  ảnh  hưởng  lên  cả  sức  khỏe  người  phun, môi  trường sinh thái và nông sản nên cần giúp người  nông dân hiểu rằng phải tuyệt đối tuân thủ các  hướng dẫn  trên bao bì hóa  chất. Việc  sử dụng  hóa chất cho cây trồng không đúng thời điểm sẽ  gây nên nhiều hậu quả cả về mặt  sinh học  lẫn  môi  trường  và  cả  sức  khỏe  con  người,về  thời  điểm  thích  hợp  để  phun  HCBVTV  có  33,0%  người nông dân cho rằng nên phun khi bắt đầu  có dấu hiệu phá hoại  của  sâu bệnh, 63,3%  cho  rằng nên phun khi  chưa  có dâu hiệu phá hoại  của sâu bệnh.  Về  thực hành sử dụng HCBVTV của người  nông dân trong khảo sát này cho thấy, 96,9% có  đọc hướng dẫn sử dụng trên bao bì, 95,1% kiểm  tra bao bì nguyên vẹn trước khi sử dụng, 58,6%  pha  hóa  chất  chung  dựa  trên  hướng  dẫn  trên  bao bì. Tỉ  lệ pha chung hóa chất  tương đối cao  chiếm  88,2%,  cao  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Trần  Bình  Thắng  ở  Thừa  Thiên Huế  là  70,3%.  Trong  số  pha  chung,  chỉ  có  58,6%  pha  chung  theo hướng dẫn  trên bao bì.  Đây  là một  trong  những  nguy  cơ  làm  tăng  ảnh  hưởng  của  hóa  chất  lên sức khỏe người sử dụng(7), 96,3% phun  hóa chất vào sáng sớm hoặc chiều mát và 68,8%  đối tượng cho biết luôn vệ sinh dụng cụ phun ở  nguồn  nước  riêng  biệt.  Tỉ  lệ  này  xấp  xỉ  với  nghiên  cứu  của Nguyễn Tuấn Khanh  là  91,2%  đối tượng chọn trời mát để phun hóa chất(6). Sau  khi đã sử dụng hết hóa chất, có 94,1% đối tượng  không tái sử dụng bao bì, 63,6% đối tượng gom  bao  bì  lại  đốt  hoặc  chôn  chung  và  23,8%  đối  tượng  bỏ  tùy  tiện  bao  bì  ở  bờ  ruộng,  vườn.  Trong khi đó, có 0,9% đối tượng sử dụng lại bao  bì  để đựng  chính  loại hóa  chất  đó. Trong  thực  hành  an  toàn  khi  phun  hóa  chất,  có  6,8%  đối  tượng  được  khảo  sát  cho  biết  có  hút  thuốc  lá  trong lúc phun.  Bảng 1: Thực hành sử dụng các loại bảo hộ lao động  khi pha/phun hóa chất  Nội dung (n=324) Tần số (n) Tỉ lệ (%) Sử dụng mũ, nón 214 66,1 Sử dụng kính bảo vệ 128 39,5 Sử dụng khẩu trang 269 83,0 Sử dụng quần dài, áo dài tay, áo mưa 268 82,7 Sử dụng bao tay 88 27,2 Sử dụng ủng, giày cao su 29 9,0 Không sử dụng bất kì loại bảo hộ lao động nào 48 14,5 Tỉ lệ không sử dụng đồ bảo hộ lao động khi  phun hóa chất  là 14,5%, con số này cao hơn so  với nghiên cứu của Đặng Phước Bảo Quốc ở Kế  Sách‐Sóc Trăng với 100% đối tượng nghiên cứu  có sử dụng bảo hộ lao động khi tiếp xúc với hóa  chất(3).Trong  số  những  đối  tượng  có  sử  dụng:  khẩu trang và quần áo dài tay được sử dụng phổ  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  91 biến nhất (chiếm 97,5% và 97,1%), ủng hoặc giày  cao su là loại bảo hộ được sử dụng ít nhất, chiếm  10,5%.  Tỉ  lệ  thực  hành  này  nhìn  chung  có  sự  khác biệt  so với kết quả nghiên  cứu  của  Đặng  Phước Bảo Quốc ở Kế Sách‐Sóc Trăng  là 24,6%  sử dụng  găng  tay,  96,9%  sử dụng  khẩu  trang,  11,1% mặc  áo mưa  khi  phun  hóa  chất(3).  Tuy  nhiên, chất lượng của việc sử dụng các loại bảo  hộ  lao  động  là  không  đồng  đều  giữa  các  đối  tương,  các  khu  vực  khác  nhau  nhưng  hầu  hết  người nông dân chưa biết cách sử dụng đúng và  hiệu quả các loại bảo hộ lao động.  Nhìn chung, có sự chênh lệch rõ rệt giữa tỉ lệ  đối tượng có kiến thức và thực hành chung đúng  và tỉ lệ đối tượng có kiến thức và thực hành đúng  ở từng phần riêng lẻ về HCBVTV. Điều này cho  thấy kiến thức và thực hành về lưu trữ HCBVTV  của đối tượng ở khảo sát này được hình thành do  thói  quen  và  học  hỏi  lẫn  nhau mà  không  phải  được đào tạo hoặc giáo dục có hệ thống.  Tác động của việc lưu trữ và sử dụng hóa  chất bảo vệ  thực vật  lên  sức khỏe người  nông dân  Bảng 2: Biểu hiện các triệu chứng cấp tính thường  gặp sau khi tiếp xúc với hóa chất bảo vệ thực vật  Nội dung (n=324) Tần số (n) Tỉ lệ (%) Triệu chứng toàn thân 121 37,4 Triệu chứng da niêm 39 12,0 Triệu chứng hệ tiêu hóa 44 13,6 Triệu chứng đường hô hấp 64 19,8 Triệu chứng tại mắt 67 20,7 Triệu chứng thần kinh 65 20,1 Nhóm triệu chứng thường gặp nhất trên đối  tượng được khảo sát là các triệu chứng toàn thân  chiếm  37,4%,  thấp  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  Trần Bình Thắng với  69,0%  có  triệu  chứng mệt  mỏi, khó chịu. Ngoài ra, triệu chứng sốt hoặc rét  cũng  chiếm một  tỉ  lệ  nhất  định  là  5,9%(7).  Ảnh  hưởng của hóa chất ít xảy ra nhất là tác động trên  da niêm chiếm 13,0%. Mô hình ảnh hưởng này có  sự  khác  biệt  so  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  Nguyễn Tuấn Khanh  ở Thái Nguyên,  tỉ  lệ  ảnh  hưởng trên da niêm  ‐ tiêu hóa  ‐ mắt  ‐ thần kinh  của nông dân huyện Phong Điền  đều  thấp hơn  người canh chè ở Thái Nguyên ‐ có tỉ lệ lần lượt là  40,1%, 23,7%, 84,8% và 51,1%.Tuy nhiên, tỉ lệ ảnh  hưởng trên hệ hô hấp lại cao hơn ở người chuyên  canh chè ở Thái Nguyên ‐ 16,2%có triệu chứng về  hô  hấp.  Ảnh  hưởng  lên  mắt  người  nông  dân  trong  nghiên  cứu  này  cũng  thấp  hơn  so  với  nghiên cứu của Trương Công Đạt  ở Kế Xương‐ Thái Bình với 33,5% bị ngứa hoặc đỏ mắt(6, 7).  KẾT LUẬN  Nhìn chung, người nông dân có kiến thức và  thực  hành  đúng  về  HCBVTV  còn  thấp.  Kiến  thức,  thực  hành  chung  đúng  về  lưu  trữ  HCBVTV lần lượt là 20,4% và 32,7%. Kiến thức,  thực hành chung đúng về sử dụng HCBVTV lần  lượt là 20,4% và 24,4%. Trong an toàn lao động:  có  6,8%  đối  tượng  vẫn  hút  thuốc  lá  trong  lúc  phun  hóa  chất  và  14,5%  hoàn  toàn  không  sử  dụng bất kì loại bảo hộ nào.   Tỉ  lệ  đối  tượng  có  chịu  tác  động  của  HCBVTV  lên  sức  khỏe  tương  đối  cao:  50,9%  tổng số người tham gia phỏng vấn. Có 37,4% có  triệu chứng  toàn  thân, 12,0% có  triệu chứng da  niêm,  13,6%  có  triệu  chứng  tiêu  hóa,  19,8%  có  triệu chứng hô hấp, 20,7% có triệu chứng ở mắt  và triệu chứng thần kinh là 20,1%.   TÀI LIỆU THAMKHẢO  1. Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ (2012). Báo cáo thống  kê tổng hợp 6 tháng đầu năm 2012. Bệnh viện Đa khoa Cần  Thơ. Tr.1‐2.  2. Cục Y tế dự phòng và Môi trường (2010). Báo cáo công tác y  tế  lao động, bệnh nghề nghiệp năm 2009. Hội nghị tổng kết  công tác Y tế lao động, bệnh nghề nghiệp năm 2009, triển khai  công tác năm 2010. Tr. 2‐3.  3. Đặng Phước Bảo Quốc (2008). Nghiên cứu tình hình sử dụng  và bảo quản thuốc bảo vệ thực vật của người nông dân tại xã  Kế An, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng năm 2008. Luận văn tốt  nghiệp  chuyên khoa  cấp  1. Trường  Đại học Y Dược  thành  phố Hồ Chí Minh. Tr. 17‐39.  4. K’ Vởi, Đỗ Văn Dũng (2008). Kiến thức, thái độ, thực hành về  hoá chất bảo vệ  thực vật của người dân  trồng rau tại  thành  phố Đà Lạt  tỉnh Lâm Đồng năm 2008. Tạp chí Y học  thành  phố Hồ Chí Minh. 14 (1) 109‐115.  5. Khan DA, Shabbir S, Majid M, Ahad K, Naqvi TA, Khan FA  (2010).  Risk  assessment  of  pesticide  exposure  on  health  of  Pakistani  tobacco  farmers.  Journal  of Exposure  Science  and  Environmental Epidimiology. 20 (1): 196‐204.  6. Nguyễn  Tuấn  Khanh  (2010).  Đánh  giá  ảnh  hưởng  của  sử  dụng hoá chất bảo vệ  thực vật đến sức khoẻ người chuyên  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 92 canh chè tại thái nguyên và hiệu quả của các biện pháp can  thiệp. L