Cơ sở: Rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là yếu tố nguy cơ chính của bệnh đái tháo đường týp 2. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang có so sánh. Kết quả: Trong nghiên cứu này, 80 người RLGMLĐ có tuổi trung bình là 64,2 ± 11,1 và 80 người khỏe mạnh có độ tuổi (61,9 ± 11,9) và phân bố về giới tương đương. Kết quả nghiên cứu cho thấy: HOMA IR của nhóm RLGMLĐ cao hơn so với nhóm chứng (5,7 ± 4,7 so với 2,3 ± 1,4, p < 0,001). Tỷ lệ kháng insulin của người RLGMLĐ là 45,0%. Kết luận: Người RLGMLĐ có tỷ lệ kháng insulin cao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: thanhuyen291 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói bằng phương pháp HOMA IR, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 174 
NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG KHÁNG INSULIN Ở NGƯỜI RỐI LOẠN 
GLUCOSE MÁU LÚC ĐÓI BẰNG PHƯƠNG PHÁP HOMA IR 
Hoàng Ngọc Vân*, Nguyễn Đức Công*, Nguyễn Bá Lương*, Hồ Thượng Dũng* 
TÓM TẮT 
Cơ sở: Rối loạn glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) là yếu tố nguy cơ chính của bệnh đái tháo đường týp 2. 
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc đói. 
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang có so sánh. 
Kết quả: Trong nghiên cứu này, 80 người RLGMLĐ có tuổi trung bình là 64,2 ± 11,1 và 80 người khỏe 
mạnh có độ tuổi (61,9 ± 11,9) và phân bố về giới tương đương. Kết quả nghiên cứu cho thấy: HOMA IR của 
nhóm RLGMLĐ cao hơn so với nhóm chứng (5,7 ± 4,7 so với 2,3 ± 1,4, p < 0,001). Tỷ lệ kháng insulin của 
người RLGMLĐ là 45,0%. 
Kết luận: Người RLGMLĐ có tỷ lệ kháng insulin cao. 
Từ khóa: Rối loạn glucose máu lúc đói, kháng insulin, HOMA IR. 
ABSTRACT 
STUDY OF THE INSULIN RESISTANCE IN HUMAN WITH IMPAIRED FASTING GLUCOSE BY 
HOMEOSTASIS MODEL ASSESSMENT (HOMA IR) 
Hoang Ngọc Van, Nguyen Đuc Cong, Nguyen Ba Luong, Ho Thuong Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 174 - 178 
Background: Impaired fasting glucose is the major factor of type 2 diabetes mellitus. 
Objective: To evaluate insulin resistance in human with impaired fasting glucose. 
Methods: A prospective descriptive cross section with comparisons. 
Results: In this study, the mean age of 80 patients with impaired fasting glucose is 64.2 ± 11.1, the mean age 
of 80 healthy controls is 61.9 ± 11.9 and the gender distributions of two previous groups are equal. The results of 
the study showed that: HOMA IR is higher in the impaired fasting glucose group than the control group. The 
ratio of insulin resistance in the impaired fasting glucose group 45.0%. 
Conclusion: The ratio of insulin resistance in human with impaired fasting glucose is high. 
Key words: impaired fasting glucose, insulin resistance, HOMA IR. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kháng insulin là yếu tố nguy cơ chính trong 
một số bệnh lý, bao gồm ĐTĐ týp 2, béo phì, 
tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và những bệnh 
lý tim mạch khác. Trong thời gian gần đây 
kháng insulin đang là vấn đề thời sự không 
những trên thế giới mà cả ở Việt Nam. 
Rối loạn glucose máu lúc đói là tình trạng 
glucose máu cao hơn bình thường nhưng 
chưa đủ ngưỡng để chẩn đoán ĐTĐ. Những 
người rối loạn glucose máu lúc đói hàng năm 
có khoảng 3% tiến triển thành ĐTĐ týp 2. 
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng sự 
kháng insulin là nguyên nhân chính và được 
xem như là một yếu tố nguy cơ chính của 
* Bênh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Hoàng Ngọc Vân ĐT: 0988881789 Email: 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 175 
bệnh ĐTĐ týp 2. Do đó việc đánh giá chính 
xác kháng insulin là một việc rất quan trọng. 
Cụ thể là kháng insulin ở những người có yếu 
tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ týp 2. Xuất phát từ 
những lý do trên chúng tôi tiến hành “nghiên 
cứu tình trạng kháng insulin ở người rối loạn 
glucose máu lúc đói bằng phương pháp 
HOMA IR” nhằm mục tiêu: Đánh giá tình trạng 
kháng insulin ở người rối loạn glucose máu lúc 
đói. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nhóm nghiên cứu: gồm 80 người rối loạn 
glucose máu lúc đói (RLGMLĐ) 
Nhóm chứng: Bao gồm 80 người khỏe 
 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Nhóm RLGMLĐ: những người được chẩn 
đoán RLGMLĐ đến khám và điều trị nội trú tại 
khoa nội Tổng hợp B1 bệnh viện Thống Nhất, 
thời gian từ tháng 01/2010 - 01/2011 
Nhóm chứng: bao gồm những người khỏe 
mạnh không có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh đái 
tháo đường týp 2 đến khám sức khỏe tại khoa 
cùng thời điểm. 
Tiêu chuẩn loại trừ của nhóm RLGMLĐ 
Người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ). 
Người bị suy tim, suy gan, suy thận nặng, 
suy kiệt nặng, đang mắc các bệnh ác tính. 
Đang trong bệnh cảnh cấp tính như nhiễm 
khuẩn huyết, hôn mê do chuyển hóa hay do 
một nguyên nhân khác (ví dụ như nhồi máu cơ 
tim, hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu...). 
Phụ nữ mang thai. 
Đang sử dụng một số thuốc ảnh hưởng đến 
chức năng tế bào β, độ nhạy insulin như 
corticoid, thuốc ức chế beta, thuốc tránh thai 
trong vòng một tháng gần đây... 
Bệnh nhân mắc các bệnh: to đầu chi, 
Cushing do thuốc, cường chức năng tuyến giáp. 
Tiêu chuẩn loại trừ của nhóm chứng 
Có người thân thế hệ cận kề (bố, mẹ đẻ, con, 
anh chị em ruột) mắc bệnh ĐTĐ. 
Các bệnh nhân mắc các bệnh nội tiết, phụ 
nữ đã được xác định có hội chứng buồng 
trứng đa nang. 
Phụ nữ mang thai, phụ nữ có tiền sử sản 
khoa đặc biệt: thai chết lưu, sẩy thai, ĐTĐ thai 
kỳ, sinh con to (≥ 4000g) hoặc có tiền sử sinh 
con < 2500g. 
Phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai trong 
vòng một tháng gần đây. 
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn glucose máu 
lúc đói (RLGMLĐ) 
Chẩn đoán rối loạn glucose máu lúc đói dựa 
theo tiêu chuẩn của liên đoàn đái tháo đường 
quốc tế (IDF) năm 2005(1). 
Chẩn đoán rối loạn glucose máu lúc đói khi 
glucose huyết tương lúc đói ≥ 5,6 mmol/L 
(100mg/dL) và < 7 mmol/L (126mg/dL), phải dựa 
vào 2 lần thử trong vòng 3 ngày và tối đa là 1 
tuần kể từ lần xét nghiệm đầu tiên. 
Xác định tình trạng kháng insulin dựa vào 
phương pháp HOMA IR 
HOMA IR = [insulin (µU/ml) × glucose 
(mmol/L)]/22,5 
Năm 1998 Tổ chức Y tế thế giới quy ước 
kháng insulin khi chỉ số HOMA IR lớn hơn tứ 
phân vị trên của nhóm chứng(4). 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiến cứu, mô tả cắt ngang có so sánh. 
Nội dung nghiên cứu 
Hỏi tiền sử, khám lâm sàng, đo chiều cao, 
cân nặng, chỉ số khối cơ thể (BMI), tính chỉ số 
vòng bụng/vòng mông (WHR). 
Xét nghiệm glucose máu lúc đói, HbA1c, 
cholesterol toàn phần, triglyceid, LDL – C, HDL 
– C. Định lượng insulin máu lúc đói (Sử dụng 
phương pháp miễn dịch hóa phát quang bằng 
máy ELECSYSE - 170 của hãng ROCHE. Đơn vị 
đo nồng độ insulin là µU/mL, giá trị trung bình 
là 2,6 - 24,9 µU/mL), tính chỉ số HOMA IR. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 176 
 Xử lý số liệu 
Các thông số nghiên cứu được xử lý theo 
thuật toán thống kê ứng dụng trong y sinh học 
trên phần mềm SPSS version 16.0. 
So sánh sự khác biệt giữa các biến định tính 
bằng phép kiểm chi bình phương, với các biến 
định lượng bằng phép kiểm t- test. 
Sử dụng hàm logarit cơ số tự nhiên (ln) các 
số liệu thu được để đưa về dạng phân bố chuẩn 
trước khi phân tích, đánh giá. 
Ngưỡng giá trị p <0,05 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm đối tương nghiên cứu 
Bảng 1: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 
Nhóm 
Tuổi 
Nhóm RLGMLĐ 
(n = 80) 
Nhóm chứng 
(n = 80) p 
Toàn bộ (năm) 64,2 ± 11,1 61,9 ± 11,9 0,182 
Nam (năm) 63,1 ± 11,8 60,1 ± 13,0 0,172 
Nữ (năm) 64,8 ± 10,9 62,7 ± 11,3 0,069 
p 0,531 0,353 
Nhận xét: Tuổi trung bình giữa 2 nhóm, giữa 
nam và nữ 2 nhóm và trong mỗi nhóm là tương 
đương 
Bảng 2: Phân bố về giới của nhóm nghiên cứu 
Giới Nhóm RLGMLĐ (n = 80) 
Nhóm chứng 
(n = 80) p 
Nam, n (%) 24 (30,0) 27 (33,8) 
Nữ, n (%) 56 (70) 53 (66,2) 0,611 
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu gồm 2 
nhóm, cả 2 nhóm đều có cả nam và nữ, số lượng 
nữ giữa 2 nhóm đều có tỷ lệ cao hơn và tỷ lệ 
giữa nam và nữ giữa 2 nhóm là tương đương. 
Bảng 3: Đặc điểm bệnh nền của nhóm RLGMLĐ 
Bệnh nền Tần số (n = 80) Tỷ lệ (%) 
Tăng HA 54 67,5 
Thiếu máu cơ tim 38 47,5 
Thừa cân, béo phì 47 58,8 
Rối loạn chuyển hóa lipid 47 58,8 
Đột quỵ 13 16,3 
Bệnh lý dạ dày 8 10,0 
Nhận xét: Trong nhóm RLGMLĐ: bệnh nền 
chủ yếu là THA (67,5%), tiếp theo là RLCHLP và 
thấp nhất là bệnh lý về dạ dày (10%). 
Tình trạng kháng insulin ở người rối loạn 
glucose máu lúc đói 
Bảng 4: Nồng độ insulin của đối tượng nghiên 
cứu. 
Nhóm 
Insulin 
Nhóm RLGMLĐ 
(n = 80) 
Nhóm chứng 
(n = 80) p 
Toàn nhóm 
(μu/mL) 20,5 ±16,3 10,5 ± 6,7 
Ln-toàn nhóm 2,76 ±0,74 2,17 ± 0,66 
< 0,001 
Ln- nam 2,65 ± 0,84 1,96 ± 0,77 0,003 
Ln - nữ 2,80 ± 0,69* 2,18 ± 0,58* < 0,001 
Ln-tuổi < 60 2,78 ± 0,77 2,27 ± 0,62 < 0,001 
Ln-tuổi ≥ 60 2,72 ± 0,67¶ 2,08 ± 0,69¶ < 0,001 
Ln: Logarit cơ số tự nhiên. * Sự khác biệt giữa nam và 
nữ không có ý nghĩa (p >0,05). 
Sự khác biệt giữa nhóm tuổi <60 và nhóm tuổi 
≥60 không có ý nghĩa (p >0,05). 
Nhận xét: Insulin nhóm RLGMLĐ chung, 
theo nhóm tuổi và theo giới tính đều cao hơn 
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, không có sự 
khác biệt insulin máu theo nhóm tuổi và theo 
giới ở 2 nhóm nghiên cứu. 
Bảng 5: Giá trị trung bình HOMA IR của đối tượng 
nghiên cứu 
Nhóm 
Chỉ số 
Nhóm 
RLGMLĐ 
(n = 80) 
Nhóm chứng 
(n = 80) p 
HOMA IR chung 5,7 ± 4,7 2,3 ± 1,4 
Ln-HOMA IR chung 1,45 ± 0,66 0,63±0,29 < 0,001 
Ln-HOMA IR nam 
Ln-HOMA 
1,36 ± 0,62 0,59±0,22 < 0,001 
IR nữ 1,49±0,71 * 0,65±0,31* < 0,001 
Ln: Logarit cơ số tự nhiên. * Sự khác biệt giữa nam và 
nữ không có ý nghĩa (p >0,05). 
Nhận xét: Giá trị trung bình HOMA IR của 
nhóm RLGMLĐ cao hơn nhóm chứng có ý 
nghĩa (p <0,001). 
Bảng 6: Tỷ lệ kháng insulin của đối tượng nghiên 
cứu 
Nhóm
HOMA IR 
Nhóm RLGMLĐ 
(n = 80) 
Nhóm chứng 
(n = 80) p 
Kháng,n (%) 
36 (45,0) 
44 (55,0) 
20 (25,0) 
Không, n (%) 60 (75,0) 
< 0,001 
Nhận xét: Tỷ lệ kháng insulin ở nhóm 
RLGMLĐ là 45,0%. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 177 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 160 người, 
được chia làm 2 nhóm: nhóm chứng là nhóm 
chứng gồm 80 người lớn khỏe mạnh. Nhóm 
RLGMLĐ gồm 80 người. Với số lượng đối 
tượng nghiên cứu trên có điều kiện để so sánh 
về các chỉ số kháng insulin 
Tuổi 
Trong bảng 1 cho thấy: tuổi trung bình của 
nhóm chứng là 61,9 ± 11,9 năm, nhóm RLGMLĐ 
là 64,3 ± 11,1 năm. Sự tương đồng về tuổi của 2 
nhóm nghiên cứu cũng là một đặc điểm của đối 
tượng nghiên cứu. Tuổi trung bình của người 
RLGMLĐ trong một số nghiên cứu: Theo Lương 
Văn Một, Nguyễn Văn Quýnh (2003) nghiên 
cứu tình trạng rối loạn lipid máu ở những người 
có rối loạn glucose máu lúc đói và rối loạn dung 
nạp glucose, tuổi trung bình của người rối loạn 
glucose máu lúc đói là 56,5 ± 4,3(5) Theo Nathan 
MD và cộng sự (2007), tuổi trung bình của người 
rối loạn glucose máu lúc đói là 57 tuổi(8). Như 
vậy tuổi trung bình của người rối loạn glucose 
máu lúc đói trong nghiên cứu của chúng tôi cao 
hơn các tác giả trên. Có lẽ do những đối tượng 
phục vụ của bệnh viện Thống Nhất chủ yếu là 
người cao tuổi do đó những người được chọn 
vào nghiên cứu có tuổi trung bình cũng cao hơn 
các nghiên cứu khác. Các tác giả nghiên cứu rối 
loạn glucose máu lúc đói trên các đối tượng có 
bệnh nền khác nhau. 
Giới của đối tượng nghiên cứu 
Trong bảng 2 cho thấy mỗi nhóm đều bao 
gồm cả nam và nữ. Tỷ lệ nữ trong mỗi nhóm 
đều cao hơn nam. Tỷ lệ nam và nữ giữa hai 
nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự 
như nghiên cứu của Arvind Gupta và cộng sự 
(2003), tỷ lệ rối loạn glucose máu lúc đói ở nữ 
cao hơn nam ở người dân sống ở thành thị của 
Ấn độ(2). Tutuncuoglu. P và cộng sự năm (2008) 
cho thấy tỷ lệ nữ bị rối loạn glucose máu lúc đói 
trong nghiên cứu cao hơn nam giới với tỷ lệ nữ 
là 67,3%, nam là 32,7%(10) 
Bệnh nền của đối tượng nghiên cứu. 
Trong bảng 4 cho thấy bệnh nền của đối 
tượng nghiên cứu chủ yếu là tăng huyết áp 
(67,5%), thừa cân và béo phì (58,8%), rối loạn 
lipid máu (58,8%), bệnh mạch vành Điều này 
cho thấy phần lớn bệnh nền của các đối tượng 
nghiên cứu đều là các yếu tố nguy cơ cao và 
chính yếu của bệnh đái tháo đường týp 2. Tất cả 
các yếu tố trên có nhiều nguyên nhân và cơ chế 
bệnh sinh khác nhau song chúng đều có một 
điểm chung cơ chế bệnh sinh đó là tình trạng 
kháng insulin. 
Tình trạng kháng insulin ở người 
RLGMLĐ 
Nồng độ insulin của đối tượng nghiên cứu 
Ở bảng 5 nồng độ insulin của nhóm 
RLGMLĐ là 20,5 ± 16,3μu/L, ở nhóm chứng là 
10,5 ± 6,7 μu/L. Nồng độ insulin của nhóm 
RLGMLĐ cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,001). 
Kết quả này không phù hợp với 
Muhammad A và cộng sự năm (2006) nồng độ 
insulin huyết thanh trung bình của người rối 
loạn glucose máu lúc đói là 16 ± 18 μu/L(7), 
Markolf Hanefeld và cộng sự (2003), những 
người rối loạn glucose máu lúc đói có nồng độ 
insulin huyết thanh là (11,5 ± 8,5 μu/L)(3). Có sự 
khác biệt này có lẽ là do các nghiên cứu thực 
hiện tại các quốc gia khác nhau, các chủng tộc 
khác nhau và các phương pháp định lượng 
insulin huyết thanh cũng khác nhau. Tuổi trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của các tác 
giả trên. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy tăng nồng độ 
insulin có thể gặp ở những người rối loạn 
glucose máu lúc đói, rối loạn dung nạp đường, 
dư cân, béo phì và tăng huyết áp. Một số tác giả 
cho rằng nồng độ insulin ở người rối loạn 
glucose máu lúc đói là cao nhất, cao hơn cả 
những người đã bị đái tháo đường týp 2. Điều 
này được giải thích là do những người này mức 
độ kháng insulin rất cao nhưng chức năng tế 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 178 
bào β còn tốt chưa bị suy kiệt nên khả năng tiết 
insulin còn tốt. Về sau khi đã tiến triển thành 
ĐTĐ týp 2, và khi chức năng tế bào β bị suy kiệt 
thì nồng độ insulin huyết thanh lại giảm xuống. 
Đánh giá tình trạng kháng insulin dựa vào 
phương pháp HOMA IR 
Kháng insulin hay nhạy cảm insulin chỉ một 
tình trạng mà có thể đo được bằng nhiều 
phương pháp. Đa số các phương pháp được áp 
dụng là đo hoặc ước lượng đều có sử dụng 
nồng độ insulin và glucose máu lúc đói. Trong 
nghiên cứu này chúng tôi đánh giá tình trạng 
kháng insulin dựa vào mô hình HOMA IR, 
Trong bảng 5 cho thấy HOMA IR của nhóm 
RLGMLĐ là 5,6 ± 4,6, nhóm chứng là 2,3 ± 1,41 
và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). 
Trong mỗi nhóm sự khác biệt của HOMA IR 
giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê (p > 
0,05). Trong bảng 6 cho thấy có 36/80 người 
(45,0%) có kháng insulin. 
Tỷ lệ kháng insulin ở người rối loạn glucose 
máu lúc đói của chúng tôi thấp hơn một số tác 
giả: Novoa FJ, Boronat M (2005) trong nghiên 
cứu Novoa ở người Tây Ban Nha rối loạn 
glucose máu lúc đói có tỷ lệ kháng insulin là 
65%(9). Theo Carnevale Schianca GP (2003), trong 
nghiên cứu Carnevale Schianca ở nguời 
Caucasian có rối loạn glucose máu lúc đói, tỷ lệ 
kháng insulin là 63%(1). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ 
kháng insulin thấp hơn các tác giả trên có lẽ do 
các nghiên cứu trên đều áp dụng tiêu chuẩn 
chẩn đoán rối loạn glucose máu lúc đói của 
WHO năm 1999 (glucose máu lúc đói ≥ 
6,1mmol/L và < 7mmol/L). Các nghiên cứu trên 
đều được thực hiện ở người châu Âu và người 
Mỹ. Phần lớn các nghiên cứu thực hiện trên các 
đối tượng thừa cân và béo phì. Và có lẽ là do sự 
khác nhau về chủng tộc, màu da và chế độ ăn 
uống, sinh hoạt. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 80 người rối loạn glucose 
máu lúc đói có so sánh với nhóm chứng khỏe 
mạnh chúng tôi rút ra kết luận sau: 
HOMA IR của nhóm rối loạn glucose máu 
lúc đói (5,7 ± 4,7) cao hơn so với nhóm chứng 
khỏe mạnh (2,3 ± 1,4) có ý nghĩa với p <0,001. Tỷ 
lệ kháng insulin của người rối loạn glucose máu 
lúc đói là 45,0%. 
Hạn chế của đề tài: đề tài nghiên cứu với cỡ 
mẫu nhỏ và mới chỉ nghiên cứu trên đối tượng 
RLGMLĐ, do đó cần phải tiếp tục mỏ rộng 
nghiên cứu ở các đối tượng có nguy cơ cao khác 
của bệnh ĐTĐ týp 2, với cỡ mẫu lớn hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carnevale SGP, Rossi A, Sainaghi PP, et al (2003), “The 
significance of impaired fasting glucose versus impaired glucose 
tolerance: importance of insulin secretion and resistance”, 
Diabetes Care, 26: 1333–1337. 
2. Gupta A, Gupta R (2003), “Prevalence of diabetes, impaired 
fasting glucose and insulin resistance syndrome in an urban 
Indian population”, Diabetes Research and Clinical Practice, 
Volume 61, Issue 1, Pages 69-76. 
3. Hanefeld M, Koehler C, Fuecker K, Henkel E, Schaper F, 
Temelkova-Kurktschiev T; Impaired Glucose Tolerance for 
Atherosclerosis and Diabetes study. (2003), “Insulin secretion 
and insulin sensitivity sattern is different in isolated impaired 
glucose tolerance and impaired fasting glucose”, Diabetes care, 
Volume 26, Number 3.568-570 
4. International Diabetes Federations (2005), “Global Guideline for 
type 2 diabetes”, pages 8-9.FERATIO50 
5. Lương Văn Một, Nguyễn Văn Quýnh (2003), “Tình trạng rối loạn 
lipid máu ở những người có rối loạn glucose máu lúc đói và rối loạn 
dung nạp glucose”, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 2 chuyên 
ngành nội tiết và đái tháo đường, tr 272-276. 
6. Mattthews DR, Hosker JR, Rudenski AS et al (1985), 
“Homeostasis model assessment: insulin resistance and β cell 
funtion from fasting plasma glucse and insulin concentrations in 
man”, Diabetologie, 28: 412-419. 
7. Muhammad A, Abdul-Ghani, Christopher P et al (2006), 
“insulin secretion and action in subjects with impaired fasting 
glucose and impaired glucose tolerance”, Diabetes, Vol. 55, 1430-
1435. 
8. Nathan DM, Davidson MB, DeFronzo RA et al (2007), “Impaired 
fasting glucose and impaired glucose tolerance: implications for 
care”, Diabetes Care, 30(3): 753. 
9. Novoa FJ, Boronat M, Saavedra P et al (2005), “Differences in 
cardiovascular risk factors, insulin resistance, and insulin 
secretion in individuals with normal glucose tolerance and in 
subjects with impaired glucose regulation”, the Telde Study, 
Diabetes Care, 28: 2388–2393. 
10. Tutuncuoglu P, Sarac F, Saygili F et al (2008), “Diabetes and 
impaired glucose tolerance prevalences in Turkish patients with 
impaired fasting glucose”, Acta Diabetol, 45(3): 151-156.