TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 47 Email: 
[email protected] 
ONE-STEP SYNTHESIS OF ACTIVATED CARBON 
FROM SUGARCANE BAGASSE 
Nguyen Thi Kieu Trinh, Nguyen Viet Anh, Nguyen Thi Nhan, Tran Thi Chau, Tran Dai Luat, 
Do Xuan Viet, Mai Xuan Dung*, Dang Thi Thu Huyen 
Hanoi Pedagogical University 2 
ARTICLE INFO ABSTRACT 
Received: 12/5/2021 Activated carbon (AC) derivated from biomass (BM) is a material that 
can reduce BM emission, be used for environmental treatment and 
increase increase the profit of agriculture production. The conversion 
of biomass (BM) into AC usually requires a two-step procedure 
including pyrolysis of BM into biochar (BC) and activation of BC 
into AC. While the earlier step is relatively simple and common for 
most BM the latter is complicate and high-temperature conditions are 
needed to activate solid-state reaction between BC and activating 
agents. In this paper, we demonstrate a one-step preparation of AC from 
sugarcane bagasse (SB) by pyrolysis of SB in the presence of NaOH 
catalyst. Nitrogen adsorption-desorption analysis revealed that AC has a 
surface area of 146.6 m2/g which is much higher than the surface area 
of BC and is about 40% as compared to the surface area of steam-
activated AC at 500oC. The results indicate that the one-step method is 
a cost-effective procedure for the preparation of AC from BM. 
Revised: 28/6/2021 
Published: 01/7/2021 
KEYWORDS 
Biochar 
Activated carbon 
Sugarcane bagasse 
Biomass 
Pyrolysis 
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP THAN HOẠT TÍNH TỪ BÃ MÍA 
BẰNG QUY TRÌNH MỘT GIAI ĐOẠN 
Nguyễn Thị Kiều Trinh, Nguyễn Việt Anh, Nguyễn Thị Nhàn, Trần Thị Châu, Trần Đại Luật, 
Đỗ Xuân Việt, Mai Xuân Dũng*, Đặng Thị Thu Huyền 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT 
Ngày nhận bài: 12/5/2021 Than hoạt tính từ phế phẩm nông nghiệp (AC) là vật liệu giải quyết 
được nhiều vấn đề như giảm phát thải phế phẩm nông nghiệp (BM), 
xử lí môi trường và tăng giá trị của sản xuất nông nghiệp. Để chuyển 
hóa BM thành AC thường đòi hỏi hai giai đoạn là nhiệt phân BM để 
tạo thành than sinh học (BC) và hoạt hóa BC thành AC. Trong khi 
giai đoạn nhiệt phân BM là tương đối đơn giản và tương tự nhau cho 
hầu hết các BM thì giai đoạn hoạt hóa BC khá phức tạp, đòi hỏi nhiệt 
độ cao để kích hoạt các phản ứng pha rắn giữa BC và các tác nhân 
hoạt hóa. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu 
tổng hợp AC từ bã mía (SB) bằng một giai đoạn nhiệt phân SB tẩm 
NaOH. Kết quả phân tích hấp phụ - giải hấp nitơ cho thấy, AC thu 
được có diện tích bề mặt (SBET) bằng 146,6 m2/g. Giá trị này cao 
hơn nhiều so với diện tích bề mặt của BC tương ứng và đạt khoảng 
40% so với AC đã hoạt hóa với hơi nước ở 500oC. Quy trình tổng 
hợp AC một bước có thể được sử dụng để chế tạo vật liệu hấp phụ 
với dung lượng hấp phụ tương đối tốt từ các loại BM khác nhau với 
chi phí thấp. 
Ngày hoàn thiện: 28/6/2021 
Ngày đăng: 01/7/2021 
TỪ KHÓA 
Than sinh học 
Than hoạt tính 
Bã mía 
Phế phẩm nông nghiệp 
Nhiệt phân 
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.4479 
* Corresponding author. Email: 
[email protected] 
TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 48 Email: 
[email protected] 
1. Giới thiệu 
Theo số liệu thống kê của Nationalmaster (https://www.nationmaster.com), trong hơn 20 năm 
qua, Việt Nam là một trong những nước sản xuất mía đường nhiều nhất trên thế với sản lượng trung 
bình từ 15 đến 18 triệu tấn/năm. Sau khi ép lấy nước để sản xuất đường thì đồng thời cũng tạo ra 
khoảng 4,5 triệu tấn SB/năm. Đây là nguồn phế thải có giá trị, đã và đang được sử dụng làm 
nguyên liệu lò hơi, sản xuất bột giấy, phân bón hoặc được ủ thành thức ăn cho gia súc. Với sản 
lượng khô toàn thế giới lớn (khoảng 54 triệu tấn/năm) và chứa chủ yếu là cellulose (50% cellulose, 
25% hemicellulose và 25% lignin), SB được đánh giá là nguyên liệu quan trọng để sản xuất BC và 
AC giá rẻ [1], [2], góp phần nâng cao giá trị của cây mía và giảm phát thải chất thải rắn. 
Tương tự như các BM khác [3]–[5], BC có thể được sản xuất bằng phương pháp nhiệt phân 
yếm khí ở nhiệt độ cao (khoảng từ 350 đến 500oC) để than hóa cellulose (ở khoảng 300oC) và 
lignin (từ 310 đến 500oC) [2]. Trong quá trình này, cellulose và hemicellulose sẽ bị dehydrat hóa 
trong khi lignin sẽ trải qua các quá trình phức tạp hơn để giải phóng ra các tiểu phân dễ bay hơi 
như nước, methanol, acetone, acetaldehyde, monolignols, mono-phenols, catechol, hydrogen, 
methane, ethane, ethylene, CO và CO2 [6]. Các tiểu phân dễ bay hơi là sản phẩm của quá trình 
ngưng tụ giữa các nhóm phân cực trên các mạch polymer. Các quá trình ngưng tụ như vậy 
thường dẫn tới các mạnh carbon bó sát vào nhau làm cho BC có rất ít các lỗ xốp với tổng diện 
tích bề mặt thấp, khoảng ~25 m2/g [2], [7]. Ở trạng thái này, BC có thể được sử dụng làm nguyên 
liệu đốt lò hoặc làm vật liệu cải tạo đất [4]. Để tăng diện tích bề mặt cho BC, qua đó tăng giá trị 
ứng dụng của BC, người ta thường phải hoạt hóa BC bằng phương pháp hóa học hoặc vật lí ở 
nhiệt độ cao. Trong phương pháp hoạt hóa vật lí, BC được xử lí với CO2 hoặc H2O ở nhiệt độ cao 
nhằm kích hoạt phản ứng giữa các tác nhân này với C theo phương trình: [6] 
C+
2 2
2
2 2 2
117 /
2 159 /
41 /
C H O CO H H kJ mol
C CO CO H kJ mol
CO H O CO H H kJ mol
+ → +  =
+ →  =
+ → +  =
Trong phương pháp hoạt hóa hóa học, các ion kim loại kiềm đóng vai trò quan trọng trong 
việc tạo ra các phân tử khí đễ bay hơi, hoạt động ở nhiệt độ cao, ví dụ: 
2
2 3 2
2
2 2 2 2
2
2
KOH C CO K H
K CO C K O CO
K O C K CO
+ → + +
+ → +
+ → +
Kim loại K hình thành dễ dàng phản ứng với các nhóm chức phân cực còn lại của BC để tạo thành 
hơi nước; hơi nước và CO, CO2 có tác dụng hoạt hóa BC như quá trình hoạt hóa vật lí nói trên. 
Quá trình hai bước tổng hợp AC từ BM có thể được thay thế bằng quá trình nhiệt phân một 
bước BM trong sự có mặt của xúc tác như ZnCl2 hay H3PO4 [5], [8], [9]. Các chất xúc tác này có 
vai trò chủ yếu là ngăn cản sự hình thành các đại phân tử hydrocarbon thơm từ lignin, làm giảm 
nhiệt độ của quá trình dehydrat hóa lignin và phá hủy mạng lưới cấu trúc carbon ở nhiệt độ cao 
để tạo thành các kênh lỗ xốp [10]. Xét ở góc độ môi trường, việc sử dụng xúc tác ZnCl2 có thể 
phát thải chất ô nhiễm thứ cấp là ion Zn2+, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ phát thải Cl2 và hợp chất 
hữu cơ chứa Cl. 
Chúng tôi nhận thấy rằng, NaOH là hợp chất của kim loại kiềm có giá thành rẻ (rẻ hơn KOH), 
ít độc hại và có nhiệt độ nóng chảy ~318oC (thấp hơn nhiệt độ nóng chảy của KOH, 360oC) phù 
hợp làm xúc tác để hoạt hóa BM thành AC thông qua quá trình phân hủy nhiệt một giai đoạn. Để 
kiểm chứng giả thuyết này, chúng tôi nghiên cứu tổng hợp AC từ SB trong sự có mặt của NaOH. 
Kết quả phân tích cấu trúc xốp cho thấy, AC thu được có diện tích bề mặt đạt 146,6 m2/g, cao 
hơn nhiều so với BC (~25 m2/g) và đạt khoảng 40% so với diện tích bề mặt của AC hoạt hóa 
bằng hơi nước [2]. 
TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 49 Email: 
[email protected] 
2. Thực nghiệm 
2.1. Hóa chất, thiết bị 
Hóa chất bao gồm NaOH (99,8%, Aladdin), methylene blue hydrate (MB, 96%, Aladdin) và 
HCl (35-37%, Merk) được sử dụng để pha chế dung dịch với nước cất hai lần. Các thiết bị để 
tổng hợp mẫu và tiến hành thí nghiệm đánh giá khả năng hấp phụ của AC với MB bao gồm tủ 
sấy (Memmert UN75, Đức), lò nung (SH Scientific, Hàn Quốc), máy lắc ngang (JEIOTECH, 
Hàn Quốc), máy li tâm (Hettich MIKRO, Đức) và máy quang phổ hấp thụ UV-2450 (Shimadzu, 
Nhật Bản). Các thiết bị để đặc trưng vật liệu bao gồm TriStar II 3020 (Micromeritics, Mỹ) và 
Spectrum Two (Perkin Elmer, Mỹ). 
2.2. Tổng hợp AC từ SB 
SB được lấy từ các cửa hàng ép nước mía trên địa bàn phường Xuân Hòa, thành phố Phúc 
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. SB sau đó được cắt nhỏ (~1-2 cm) bằng kéo và rửa sạch với nước máy, 
nước cất một lần trước khi sấy khô ở 120oC trong 12 giờ. Sau khi sấy khô, SB được ngâm vào 
trong dung dịch NaOH 1M trong 30 phút, để róc nước trước khi tiếp tục sấy khô ở 120oC qua 
đêm. SB đã tẩm NaOH tiếp tục được nung đến 450oC với tốc độ tăng nhiệt là 20 độ/phút, thời 
gian lưu ở 450oC là 1 giờ để thu được AC. Để loại bỏ NaOH, AC được rửa sạch với nước cất cho 
đến khi dịch lọc trung tính trước khi được sấy khô để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo. 
2.3. Đặc trưng cấu trúc vật liệu 
Diện tích bề mặt, thể tích lỗ xốp, sự phân bố kích thước lỗ xốp của AC được nghiên cứu bằng 
phương pháp hấp phụ - giải hấp nitơ trên thiết bị TriStar II 3020. Phổ hồng ngoại FT-IR của AC 
được đo trên máy Spectrum Two. 
Để đánh giá tiềm năng ứng dụng của AC làm vật liệu hấp phụ, chúng tôi sử dụng MB làm mô 
hình nghiên cứu cho chất màu hữu cơ. Cho 0,3 g AC vào các bình tam giác chứa 50 ml dung dịch 
MB có nồng độ khác nhau (5; 15; 25; 50; 75; và 100 mg/L) rồi tiến hành lắc trong 2 giờ với tốc 
độ 200 chu kỳ/phút ở nhiệt độ phòng. Nồng độ của MB trong dung dịch trước và sau khi hấp phụ 
được xác định bằng phương pháp phổ. Cụ thể, phổ hấp thụ UV-Vis của 10 dung dịch MB chuẩn 
có nồng độ từ 1 đến 10 mg/L được đo trên máy UV-2450 để xây dựng đường chuẩn về sự phụ 
thuộc của độ hấp thụ ở 665 nm (Abs) vào nồng độ MB (CMB). Phương trình đường chuẩn xác 
định được là: Abs=0,0875CMB -0,0268 với R2=0,9998. Để xác định nồng độ MB trong dung dịch 
trước và sau khi hấp phụ, dung dịch MB được pha loãng với hệ số nhất định (hệ số pha loãng tùy 
thuộc vào nồng độ đầu của MB) và đo độ hấp thụ ở 665 nm. Để loại bỏ AC khỏi dung dịch MB 
sau quá trình hấp phụ, hỗn hợp được ly tâm ở tốc độ 4000 vòng/phút trong 5 phút. Nồng độ MB 
trong dung dịch được tính toán dựa vào kết quả đo độ hấp thụ ở 665 nm, phương trình đường 
chuẩn và hệ số pha loãng. 
3. Kết quả và thảo luận 
Từ giản đồ phân tích nhiệt trọng của SB đã công bố [2], [11], theo đó quá trình nhiệt phân của 
SB gồm các giai đoạn: bay hơi các thành phần nhẹ ở dưới 120oC, dehydrat hóa và phân hủy 
hemicellulose trong khoảng từ 220oC đến 315oC, dehydrat hóa và phân hủy cellulose trong 
khoảng từ 315oC đến 400oC và phân hủy lignin, cracking C-C, ngưng tụ carbon, than hóa ở 
khoảng từ 350oC đến 500oC. Cực đại giản đồ nhiệt trọng cho các giai đoạn hủy hemicelllulose, 
cellulose và lignin lần lượt là 220oC, 325oC và 420 - 460oC [2], [11]. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi đã lựa chọn nhiệt độ để sấy và nhiệt phân SB lần lượt là 120oC và 450oC. 
Phổ hồng ngoại của AC được trình bày trên hình 1. Phổ IR có các vùng hấp thụ đặc trưng 
gồm: 3460 cm-1 (H2O hấp phụ), 3200-3000 cm-1 (C-H trong hydrocarbon thơm), 1640 cm-1 (C=C 
trong hydrocarbon thơm) và 1080-1210 cm-1 (C-O-C) [2]. Có thể thấy, AC thu được thiếu các 
nhóm chất phân cực như C=O và COOH và không thấy xuất hiện các cực đại hấp phụ đặc trưng 
TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 50 Email: 
[email protected] 
của C-H no. Điều này chứng tỏ quá trình phân hủy SB dưới tác dụng của NaOH là tương đối hiệu 
quả để tạo thành vật liệu dầu C ở 450oC. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, NaOH dễ dàng thấm 
vào giữa các sợi cellulose để bẻ gẫy liên kết giữa lignin với hemiccellulose, cellulose; thúc đẩy 
quá trình phân hủy hemicellulose và có thể phá vỡ mạnh cellulose để tạo thành các lỗ nhỏ trên 
thành và vỏ cellulose [12], [13]. 
Hình 1. Phổ hồng ngoại của AC 
Hình 2. a) Giản đồ hấp phụ - giải hấp N2 của AC ở 77K, b) Đường hấp phụ tuyến tính BET xác định diện 
tích bề mặt và c) Sự phân bố kích thước lỗ của AC theo BJH 
Cấu trúc xốp của AC là thông số quan trọng để đánh giá tiềm năng ứng dụng của nó. Để 
nghiên cứu tính chất này, chúng tôi đã tiến hành đo hấp phụ - giải hấp đẳng nhiệt N2 ở 77K, kết 
quả được trình bày trên hình 2. Theo phân loại của IUPAC [14], đường hấp phụ đẳng nhiệt (hình 
2a) của AC thuộc nhóm II với điểm “đầu gối” B ở áp suất tương đối po/p = 0,025. B là điểm kết 
thúc quá trình hấp phụ đơn lớp và việc B ở po/p=0,025 thấp chứng tỏ quá trình hấp phụ N2 trên 
AC ở po/p<0,025 chủ yếu quá trình ngưng tụ trong các vi lỗ [14], [15]. Khi áp suất tương đối 
tăng, lượng N2 hấp phụ tăng tuyến tính và không đạt giá trị bão hòa ở po/p≈ 1 chứng tỏ có sự hình 
thành đa lớp N2 hấp phụ trên AC. Đường giải hấp N2 trễ so với đường hấp phụ (hình 2a) và hiện 
tượng trễ trải dài trong khoảng áp suất tương đối rộng và không đóng kín. Hiện tượng đường trễ 
không đóng kín tướng đối phổ biến đối với vật liệu carbon [15]-[17] và được giải thích do lỗ xốp 
của AC bị biến dạng sau quá trình hấp phụ N2 hoặc AC chứa các vi lỗ dạng lọ mực có tác dụng 
giam giữ các phân tử N2 hấp phụ đến mức chúng không thể bay hơi trong quá trình giải hấp. 
Để tính diện tích bề mặt của AC, chúng tôi đã sử dụng phương pháp Brunauer-Emmett-Teller 
(BET) để xây dựng đường tuyến tính 1/[Q(po/p-1)] theo po/p (hình 2b). Từ các giá trị độ dốc (c-
1)/Qmc và điểm cắt trục tung 1/Qmc tính được diện tích bề mặt riêng SBET = QmNAs/V = 146,6 m2/g. 
Trong các phương trình nêu trên, Q và Qm là thể tích khí hấp phụ, c là hằng số BET, NA là số 
Avogadro, s là diện tích hình chiếu của một phần tử N2 hấp phụ và V là thể tích của một mol N2. 
Giản đồ phân tích thể tích hấp phụ theo đường kính lỗ theo phương pháp Barrett-Joyner-
Halenda (BJH) (hình 2c) cho thấy, tổng thể tích lỗ xốp V của AC đạt khoảng 0,23 cm3, trong đó 
khoảng 0,13 cm2 là đóng góp của các lỗ xốp có đường kính D < 3nm. Đường vi phân của V theo 
4000 3500 3000 1600 1200 800
T
ra
n
s
m
it
ta
n
c
e
 (
%
)
Wavenumber (cm
-1
)
1640
1082
1210
0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0
0
20
40
60
80
100
120
140
160
 A
b
s
o
rb
e
d
 (
c
m
3
/g
)
Relative pressure
 Adsorption
 Desorption
B (0,025)
0.00 0.05 0.10 0.15 0.20 0.25
0
1
2
3
4
5
6
7
8
1
[Q
(p
o
/p
-1
)]
Relative pressure
x10
-3
1 10 100
0.00
0.05
0.10
0.15
0.20
0.25
P
o
re
 v
o
lu
m
e
 (
c
m
3
)
Pore diameter (nm)
 V
 dV/d(logD)
 d
V
/d
(l
o
g
D
)
a) b) c)
TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 51 Email: 
[email protected] 
D cho thấy các lỗ xốp phổ biến có đường kính là ~1 nm, 1,5 nm và 2,1 nm; Đường kính lỗ trung 
bình là 1,9 nm. Kết quả phân tích lỗ xốp phù hợp với hiện tượng trễ trên đồ thị hấp phụ - giải hấp 
trên hình 2a. 
Hình 3. a) Đồ thị hấp phụ đẳng nhiệt MB trên AC và b) Đường tuyến tính 1/Q theo 1/c 
Để đánh giá khả năng ứng dụng của AC làm vật liệu hấp phụ, chúng tôi đã tiến hành thử 
nghiệm hấp phụ MB trên AC ở điều kiện hấp phụ tĩnh. Sau 2 giờ hấp phụ, nồng độ MB ở trạng 
thái cân bằng được xác định bằng phương pháp phổ. Kết quả khảo sát sự hấp phụ MB trên AC 
được trình bày trên hình 3. Các điểm thực nghiệm trên hình 3 là dung lượng hấp phụ cân bằng Q 
ở các nồng độ cân bằng c; Đường nối liền trên hình 3a là đồ thị hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir: 
Q=Qmkc/(1+kc), trong đó Qm là dung lượng hấp phụ đơn lớp bão hòa và k là hằng số hấp phụ 
Langmuir. Để tìm giá trị Qm, chúng tôi vẽ đồ thị 1/Q theo 1/c (hình 3b) và tìm được giá trị Qm từ 
điểm cắt của đường tuyến tính với trục 1/Q và bằng 24,5 mg/g (R2=0,9878). Giá trị này cao hơn 
nhiều so với SB (~9,1 mg/g) [1], tương đương với AC hoạt hóa bằng hơi nước (~21 mg/g) [2] 
nhưng thấp hơn nhiều so với AC hoạt hóa với ZnCl2 hay CO2 ở nhiệt độ cao [7], [18]. 
4. Kết luận 
Trong bài báo này chúng tôi đã trình bày kết quả nghiên cứu tổng hợp than hoạt tính từ bã mía 
bằng phương pháp nhiệt phân một bước với xúc tác NaOH. Kết quả cho thấy, than hoạt tính thu 
được có diện tích bề mặt khoảng 146,6 m2/g với tổng thể tích lỗ xốp khoảng 0,23 cm3/g, trong đó 
~0,13 cm3/g do đóng góp của các vi lỗ có đường kính trung bình khoảng 1,9 nm. Than có dung 
lượng hấp phụ cực đại đối với methylene blue 24,5 mg/g. Các kết quả này cho thấy có thể sử 
dụng phương pháp nhiệt phân một bước với xúc tác NaOH để tổng hợp vật liệu hấp phụ khá tốt 
từ các phế phẩm nông nghiệp. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ từ nguồn kinh phí phát triển Khoa học và Công nghệ, Trường Đại 
học Sư phạm Hà Nội 2 qua đề tài có mã số SV.2020.SP2.08. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1] T. C. A. Siqueira, I. Z. da Silva, A. J. Rubio, R. Bergamasco, F. Gasparotto, E. A. de S. Paccola, and N. 
U. Yamaguchi, “Sugarcane bagasse as an efficient biosorbent for methylene blue removal: Kinetics, 
isotherms and thermodynamics,” Int. J. Environ. Res. Public Health., vol. 17, 2020, doi: 
10.3390/ijerph17020526. 
[2] F. Rahmawati, A. F. Ridassepri, Chairunnisa, A. T. Wijayanta, K. Nakabayashi, J. Miyawaki, and T. 
Miyazaki, “Carbon from bagasse activated with water vapor and its adsorption performance for 
methylene blue,” Appl. Sci., vol. 11, pp. 1–16, 2021, doi: 10.3390/app11020678. 
0.0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6
0.04
0.05
0.06
0.07
0.08
0.09
data
 fit
1
/Q
 (
g
/m
g
)
1/c (L/mg)
0 10 20 30 40 50 60 70
10
12
14
16
18
20
22
24
Q
 (
m
g
/g
)
c (mg/L)
1
mQ kcQ
kc
=
+
a) b)
TNU Journal of Science and Technology 226(11): 47 - 52 
 52 Email: 
[email protected] 
[3] P. T. N. Lan, “Denaturing the activated charcoal that are produced from the agricultural waste to be as 
an absorbent material in treating ammonium in water,” Journal of water resources & environmental 
engineering, vol. 52, pp. 129-137, 2016. 
[4] N. T. Q. Hung, L. K. Thong, and N. M. Ky, “Agricultural residues biomass potential and applying 
efficiency for household scale biochar production in Go Cong Tay, Tien Giang province,” Science & 
Technology Development, vol. 20, pp. 68-78, 2020. 
[5] T. V. Thuan, “Preparation of activated carbon from sugarcane bagasse using zncl2 for the removal of 
cu (ii) ion from aqueous solution: application of response surface methodology (rsm),” Vietnam J. Sci. 
Technol., vol. 54, 2018, doi: 10.15625/2525-2518/54/1a/11838. 
[6] W. J. Liu, H. Jiang, and H. Q. Yu, “Thermochemical conversion of lignin to functional materials: a 
review and future directions,” Green Chem., vol. 17, pp. 4888-4907, 2015, doi: 10.1039/c5gc01054c. 
[7] K. Y. Foo, L. K. Lee, and B. H. Hameed, “Preparation of activated carbon from sugarcane bagasse by 
microwave assisted activation for the remediation of semi-aerobic landfill leachate,” Bioresour. 
Technol., vol. 134, pp. 166-172, 2013, doi: 10.1016/j.biortech.2013.01.139. 
[8] D. Montané, V. Torné-Fernández, and V. Fierro, “Activated carbons from lignin: Kinetic modeling of 
the pyrolysis of Kraft lignin activated with phosphoric acid,” Chem. Eng. J., vol. 106, pp. 1-12, 2005, 
doi: 10.1016/j.cej.2004.11.001. 
[9] E. Gonzalez-Serrano, T. Cordero, J. Rodríguez-Mirasol, and J. J. Rodríguez, “Development of Porosity 
upon Chemical Activation of Kraft Lignin with ZnCl2,” Ind. Eng. Chem. Res., vol. 36, vol. 4832-4838, 
1997, doi: 10.1021/ie970261q. 
[10] Z. Liu, Y. Huang, and G. Zhao, "Preparation and Characterization of Activated Carbon Fibers from 
Liquefied Wood by ZnCl2 Activation," BioResources, vol. 11, pp. 3178-3190, 2016. 
[11] S. A. El-Sayed and M. E. Mostafa, “Pyrolysis characteristics and kinetic parameters determination of 
biomass fuel powders by differential thermal gravimetric analysis (TGA/DTG),” Energy Convers. 
Manag., vol. 85, pp. 165-172, 2014, doi: 10.1016/j.enconman.2014.05.068. 
[12] J. Shi, Y. Lu, Y. Zhang, L. Cai, and S. Q. Shi, “Effect of thermal treatment with water, H2SO4 and 
NaOH aqueous solution on color, cell wall and chemical structure of poplar wood,” Sci. Rep., vol. 8, 
pp. 1-9, 2019, doi: 10.1038/s41598-018-36086-9. 
[13] C. Wang, H. Li, M. Li, J. Bian, and R. Sun, “Revealing the structure and distribution changes of 
Eucalyptus lignin during the hydrothermal and alkaline pretreatments,” Sci. Rep., vol. 7, pp. 1-10, 
2017, doi: 10.1038/s41598-017-00711-w. 
[14] M. Thommes, K. Kaneko, A. V. Neimark, J. P. Olivier, F. Rodriguez-Reinoso, J. Rouquerol, and K. S. 
W. Sing, “Physisorption of gases, with special reference to the evaluation of surface area and pore size 
distribution (IUPAC Technic