Nghiên cứu về Bộ Chỉ số Chất lượng kiểm toán của các quốc gia trên thế giới

Chất lượng kiểm toán là một trong những yếu tố quan trọng góp phần gia tăng độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC). Mặc dù hiện tại không có cách tiếp cận chung để đo lường chất lượng kiểm toán, nhưng gần đây một số tổ chức của các quốc gia trên thế giới đã đề xuất, thiết lập nên Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán (AQIsAudit Quality Indicators) có thể sử dụng để đo lường, đánh giá chất lượng kiểm toán, cung cấp cơ sở để so sánh giữa các cuộc kiểm toán và hãng kiểm toán khác nhau. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều sự quan tâm và bàn luận về việc đo lường chất lượng kiểm toán bởi các nhà quản lý, cơ quan giám sát, tổ chức chuyên môn và các hãng kiểm toán. Đối với Việt Nam, đây là một vấn đề quan trọng bởi thực trạng chất lượng kiểm toán BCTC hiện nay còn nhiều hạn chế tồn tại. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu về Bộ Chỉ số chất lượng kiểm toán AQIs của các tổ chức như Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC- IAASB), Cơ quan Ban hành chính sách kế toán và doanh nghiệp Singapore (ACRA), Ủy ban Giám sát các doanh nghiệp kiểm toán được chấp nhận của Mỹ (PCAOB), để làm rõ được cách thức lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán và sự khác nhau trong việc lựa chọn các nhân tố giữa các tổ chức và các quốc gia trên thế giới. Thông qua đó, tác giả nhận thấy nhu cầu của việc xây dựng và phát triển Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán AQIs Việt Nam là cần thiết để góp phần thúc đẩy, đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Từ khóa: chỉ số chất lượng kiểm toán, kiểm toán tài chính, kiểm toán độc lập, chất lượng kiểm toán, thời gian kiểm toán

pdf12 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về Bộ Chỉ số Chất lượng kiểm toán của các quốc gia trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Nghiên cứu về Bộ Chỉ số Chất lượng kiểm toán của các quốc gia trên thế giới Nguyễn Thị Thanh Mai Ngày nhận: 04/01/2019 Ngày nhận bản sửa: 16/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019 Chất lượng kiểm toán là một trong những yếu tố quan trọng góp phần gia tăng độ tin cậy của thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC). Mặc dù hiện tại không có cách tiếp cận chung để đo lường chất lượng kiểm toán, nhưng gần đây một số tổ chức của các quốc gia trên thế giới đã đề xuất, thiết lập nên Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán (AQIs- Audit Quality Indicators) có thể sử dụng để đo lường, đánh giá chất lượng kiểm toán, cung cấp cơ sở để so sánh giữa các cuộc kiểm toán và hãng kiểm toán khác nhau. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều sự quan tâm và bàn luận về việc đo lường chất lượng kiểm toán bởi các nhà quản lý, cơ quan giám sát, tổ chức chuyên môn và các hãng kiểm toán. Đối với Việt Nam, đây là một vấn đề quan trọng bởi thực trạng chất lượng kiểm toán BCTC hiện nay còn nhiều hạn chế tồn tại. Trong bài viết này, tác giả giới thiệu về Bộ Chỉ số chất lượng kiểm toán AQIs của các tổ chức như Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC- IAASB), Cơ quan Ban hành chính sách kế toán và doanh nghiệp Singapore (ACRA), Ủy ban Giám sát các doanh nghiệp kiểm toán được chấp nhận của Mỹ (PCAOB),để làm rõ được cách thức lượng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán và sự khác nhau trong việc lựa chọn các nhân tố giữa các tổ chức và các quốc gia trên thế giới. Thông qua đó, tác giả nhận thấy nhu cầu của việc xây dựng và phát triển Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán AQIs Việt Nam là cần thiết để góp phần thúc đẩy, đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Từ khóa: chỉ số chất lượng kiểm toán, kiểm toán tài chính, kiểm toán độc lập, chất lượng kiểm toán, thời gian kiểm toán 1. Nhu cầu về Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán Quay trở lại những năm đầu thế kỷ XXI, một loạt các tên tuổi lớn trên thị trường chứng khoán bị sụp đổ, điển hình là THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 55Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Enron và WorldCom kéo theo sự xóa sổ của hãng kiểm toán Authur Andersen- thuộc Big5 (Big5 chỉ 05 hãng kiểm toán lớn nhất trên thế giới trước năm 2002), chất lượng của báo cáo tài chính và tính hiệu quả của quy trình kiểm toán là đối tượng được đưa ra xem xét, phân tích và giám sát bởi các chuyên gia và nhà quản lý. Những năm gần đây nổi lên rõ nhất là trường hợp của Tập đoàn Toshiba Nhật Bản. Cơ quan quản lý tài chính Nhật Bản đã phạt Ernst & Young (E&Y) ShinNihon LLC 2,1 tỷ Yên (khoảng 17,4 triệu USD), tương đương với hai năm phí kiểm toán mà Toshiba đã trả cho E&Y ShinNihon và đình chỉ việc ký kết các hợp đồng kinh doanh mới của E&Y ShinNihon trong vòng 03 tháng. Toshiba cũng đã không gia hạn hợp đồng kiểm toán BCTC với E&Y ShinNihon. Nguyên nhân của án phạt này là do E&Y ShinNihon đã không phát hiện bất thường trong vụ bê bối kế toán tồi tệ nhất của Nhật Bản trong nhiều năm qua. Theo đó, chính Tập đoàn Toshiba đã thừa nhận rằng họ đã phóng đại lợi nhuận từ khoảng các năm 2008 đến năm 2015 và sẽ phải điều chỉnh giảm lợi nhuận một khoản ít nhất là 152 tỷ Yên, tương đương 1,2 tỷ USD. Theo Hãng tin Bloomberg, vụ bê bối kế toán này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh, tên tuổi của một trong những thương hiệu nổi tiếng nhất Nhật Bản. Vụ việc này bị phát hiện bởi một cuộc điều tra độc lập của bên thứ ba và công bố ngày 20/7/2015, khi có nghi ngờ những vấn đề bất thường của các số liệu trên BCTC. Theo đó, các sai lệch về lợi nhuận của Toshiba đã được che dấu rất “điệu nghệ”, việc làm sai lệch số liệu trên sổ sách kế toán đã diễn ra qua ba đời Tổng giám đốc điều hành, cả ba vị này đều gây sức ép rất lớn lên nhân viên đòi đạt mục tiêu doanh thu cao nhất, nhưng lại trong điều kiện sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Một quan chức dấu tên của Nhật Bản đã nhận xét rằng có một sự vi phạm nghiêm trọng về tính cẩn trọng, trách nhiệm nghề nghiệp. Các kiểm toán viên độc lập của Toshiba trong nhiều năm tự xây dựng cho mình một “cảm giác tự tin một cách sai lầm” rằng Toshiba sẽ không làm những việc như vậy. Và nữa, E&Y ShinNihon là hãng kiểm toán lớn nhất tại Nhật Bản với khoảng 3.500 kế toán viên công chứng và hơn 4.000 khách hàng. Tại Việt Nam, chất lượng BCTC sau kiểm toán cũng còn tồn đọng nhiều vấn đề cần nghiên cứu, đánh giá, điển hình là trường hợp của Công ty CP Dược phẩm Viễn Đông, Công ty CP Bông Bạch Tuyết, hay gần đây là Công ty CP NTACO (ATA), Công ty CP Thiết bị y tế Việt- Nhật (JVC) và Công ty CP Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành (TTF), Công ty CP Mỏ và xuất khập khẩu khoáng sản miền Trung (MTM), Công ty CP Công nghiệp khoáng sản Bình Thuận (KSA), BCTC của TTF trong 05 năm liên tục, từ 2011 đến 2015 được kiểm toán bởi Công ty TNHH Kiểm toán DFK Việt Nam. Tình huống xảy ra sau đó vào tháng 5/2016, khi Tân Liên Phát (công ty con của Tập đoàn Vingroup) trở thành cổ đông lớn của TTF, và Công ty Kiểm toán Ernst & Young (E&Y Việt Nam) được mời kiểm toán lại năm 2016 thì một loạt vấn đề liên quan đến hàng tồn kho, các khoản phải thu được phát hiện, gây ra hậu quả nặng nề cho các cổ đông và chủ nợ của TTF. Theo đó, gần 980 tỷ đồng phát hiện thiếu khi E&Y kiểm kê tài sản. Khoản lỗ 1.123 tỷ đồng trong Quý 2/2016 đã khiến Trường Thành phải ghi nhận khoản lỗ lũy kế lên đến 1.082 tỷ đồng, ăn mòn 75% vào vốn điều lệ của TTF, và giá trị cổ phiếu lao dốc không phanh. Trong các năm 2016, 2017, nhiều công ty đại chúng đã có những công bố sai lệch thông tin trên BCTC sau kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần, những sai lệch này chỉ được nêu lên khi thanh tra của các cơ quan có thẩm quyền như Kiểm toán nhà nước, thuế, vào cuộc và phát hiện ra. Điều này dẫn đến những nghi vấn của nhà đầu tư vào chất lượng thông tin đã được kiểm toán. Từ những tình huống thực tế ở trên cho thấy, chất lượng kiểm toán là một trong những yếu tố quan trọng góp phần gia tăng độ tin cậy của thông tin tài chính. Các cơ quan quản lý ở mỗi quốc gia đều cố gắng đưa ra những giải pháp gia tăng tính trung thực, THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 hợp lý của thông tin tài chính giúp người sử dụng có thể đưa ra các quyết định kinh tế hữu ích, trong đó giải pháp về nghiên cứu định nghĩa và đo lường chất lượng kiểm toán được nhiều quốc gia lựa chọn và nỗ lực thực hiện. Các công trình nghiên cứu đã xem xét các yếu tố tác động đến chất lượng kiểm toán, bao gồm: khối lượng, phạm vi các thủ tục kiểm toán, số giờ thực hiện kiểm toán, tỷ lệ các sai sót phát hiệnCác nghiên cứu cũng cho thấy có một số nhân tố đầu vào, đầu ra và trong quá trình kiểm toán. Các yếu tố này bao gồm hệ thống và quá trình kiểm soát chất lượng, các đặc điểm của nhóm kiểm toán, kết quả các cuộc kiểm tra, kiểm toán nội bộ và bên ngoài Tuy nhiên, để đánh giá tổng thể thì cần thiết phải có sự tập hợp các yếu tố này lại và thiết kế, đánh giá được trên cơ sở đo lường và so sánh, từ đó một số quốc gia đã xây dựng được Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán (AQIs). Tháng 2/2014, Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) đã ban hành Khuôn khổ về Chất lượng kiểm toán, Khuôn khổ này xác định các yếu tố cơ bản quyết định đến chất lượng kiểm toán. Mục tiêu của khuôn khổ giúp: (i) Nâng cao nhận thức về các nhân tố quan trọng của chất lượng kiểm toán; (ii) khuyến khích các bên liên quan chủ chốt tìm hiểu, khám phá các cách để có thể nâng cao chất lượng kiểm toán; và (iii) tạo điều kiện đối thoại nhiều hơn giữa các bên liên quan chủ chốt về chất lượng kiểm toán. Khuôn khổ chất lượng kiểm toán đã mô tả các nhân tố thuộc tính quan trọng đạt được chất lượng kiểm toán, phản ánh cả các khía cạnh khác nhau của các bên liên quan. Trong mỗi yếu tố chính, Bộ Khuôn khổ có đưa ra các thuộc tính có liên quan đến chất lượng kiểm toán. Tác giả sẽ mô tả tóm tắt về các nhân tố chính ở Bảng 1. Bộ chỉ số AQIs có thể được sử dụng bởi nhiều bên như BKS của khách hàng, hãng kiểm toán, nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Đối với BKS của khách hàng, AQIs có thể được thể hiện trên các hồ sơ thầu, bản cáo bạch của doanh nghiệp kiểm toán. Những thông tin mà BKS có thể thu thập để đánh giá rủi ro chất lượng kiểm toán; có thể bổ nhiệm, duy trì hoặc thay thế KTV hay giám sát quá trình kiểm toán của KTV độc lập. Đối với doanh nghiệp kiểm toán, AQIs giúp hãng chứng minh và thể hiện cam kết cung cấp dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao với khách hàng; đánh giá và quản lý rủi ro chất lượng kiểm toán; tăng cường các nỗ lực để nâng cao chất lượng kiểm toán; xác định nguyên nhân sâu xa của các cuộc kiểm toán không thành công và điểm yếu cần khắc phục. Đối với nhà đầu tư, AQIs giúp đánh giá rủi ro chất lượng BCTC đã được kiểm toán để trợ giúp cho quá trình ra quyết định kinh tế được hữu ích, hợp lý. Bên cạnh đó, Bộ Chỉ số AQIs giúp cho nhà quản lý nắm bắt được xu hướng phát triển của ngành kiểm toán độc lập nhằm xây dựng các chính sách, dự án phù hợp để tăng cường chất lượng kiểm toán, khắc phục các điểm yếu, thất bại. Từ đó giúp họ có thể đánh giá rủi ro, lập kế hoạch kiểm tra chất lượng phù hợp và khuyến khích sự thảo luận, các nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu của thị trường. 2. Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán của các quốc gia và tổ chức thế giới Theo nghiên cứu tìm hiểu của tác giả, các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Thụy Sỹ và Singapore đều đã xây dựng Bộ chỉ số AQIs, tương ứng với các nước vừa nêu là các tổ chức có trách nhiệm ban hành như Ủy ban Giám sát các doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận của Mỹ (PCAOB), Ủy ban trách nhiệm công chúng Canada (CPAB), Hội đồng BCTC của Anh (FRC), Hội đồng Giám sát kiểm toán (FAOA), Cơ quan ban hành chính sách kế toán và doanh nghiệp Singapore (ACRA). Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu nghiên cứu vào ba Bộ chỉ số AQIs của IFAC, PCAOB và ACRA. Tác giả đã tìm hiểu, và tổng hợp một số nội dung chính của Khuôn khổ về Chất lượng kiểm toán do IAASB ban hành, Bộ chỉ số AQIs của Singapore, Mỹ và Anh. 2.1. Khuôn khổ về Chất lượng kiểm toán (IAASB - IFAC) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Theo Khuôn khổ về chất lượng kiểm toán được ban hành bởi Ủy ban Chuẩn mực Kiểm toán và Dịch vụ đảm bảo quốc tế (IAASB)- một ủy ban thuộc Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) công bố vào tháng 02/2014- nêu rõ KTV có trách nhiệm cho chất lượng của các cuộc kiểm toán, và phải đảm bảo rằng các cuộc kiểm toán có chất lượng được thực hiện một cách nhất quán. Một cuộc kiểm toán có chất lượng khi ý kiến của KTV về BCTC có thể được tin tưởng bởi nhóm kiểm toán đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp mà: - Thể hiện được các giá trị, đạo đức và thái độ phù hợp; - Có đủ sự hiểu biết, kinh nghiệm và đủ thời gian được phân bổ để thực hiện cuộc kiểm toán; - Áp dụng quy trình kiểm toán và thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán nghiêm ngặt; - Cung cấp các báo cáo kịp thời và có giá trị; - Tương tác hợp lý với nhiều bên liên quan khác nhau. Khuôn khổ cũng phân biệt các nhân tố chính có liên quan đến chất lượng kiểm toán thể hiện ở Hình 1. Trong đó: Các yếu tố đầu vào được nhóm lại thành các tiêu chí như sau: - Các giá trị, đạo đức và thái độ của KTV mà trong đó bị ảnh hưởng bởi văn hóa của mỗi hãng kiểm toán; - Kiến thức, kinh nghiệm của KTV và thời gian phân bổ để thực hiện cuộc kiểm toán; và - Tính hiệu quả của quy trình Hình 1. Chất lượng kiểm toán kiểm toán và các thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán. Trong các tiêu chí này, các thuộc tính về chất lượng kiểm toán sẽ được tổ chức sắp xếp để áp dụng trực tiếp theo các cấp độ: - Cấp độ hợp đồng kiểm toán; - Cấp độ hãng kiểm toán, và vì vậy gián tiếp được thực hiện trên tất cả các cuộc kiểm toán; - Cấp độ quốc gia và vì vậy gián tiếp tới tất cả các hãng kiểm toán hoạt động tại quốc gia đó và các cuộc kiểm toán mà họ đã thực hiện. Các yếu tố đầu vào đối với chất lượng kiểm toán cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi bối cảnh trong từng cuộc kiểm toán cụ thể, sự tương tác giữa các bên liên quan chủ chốt và các yếu tố đầu ra. Ví dụ, luật và các quy định của pháp luật (bối cảnh) có thể yêu cầu những báo cáo đặc biệt (đầu ra) mà ảnh hưởng đến các kỹ năng (đầu vào) được thực hiện. Các yếu tố đầu ra thường được xác định bởi bối cảnh, bao gồm cả các yêu cầu của pháp luật. Trong khi các bên liên quan có thể ảnh hưởng đến đặc điểm của đầu ra, thì các bên khác có thể ít ảnh hưởng hơn. Một số bên liên quan, ví dụ như nhà đầu tư vào các công ty niêm yết, báo cáo kiểm toán là đầu ra chính và hiện tại là tương đối chuẩn hóa. Sự tương tác giữa các bên liên quan: Trong khi mỗi bên liên quan riêng biệt trong chuỗi cung ứng BCTC đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ lập BCTC chất lượng cao, thì cách thức mà các bên tương tác với nhau có thể tác động cụ thể đến chất lượng kiểm toán. Những tương tác này, bao gồm cả trao đổi chính thức hoặc không chính thức, sẽ bị ảnh hưởng bởi bối cảnh mà cuộc kiểm toán được thực hiện và cho phép mối quan hệ động tồn tại giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra. Ví dụ, sự thảo luận giữa KTV và những người chịu trách nhiệm quản trị đơn vị ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng các kỹ năng đặc biệt (đầu vào) và hình thức, nội dung của báo cáo kiểm toán (đầu ra). Bối cảnh: Có một số yếu tố theo bối cảnh có thể tạo điều kiện thuận lợi cho chất lượng BCTC, bao gồm quản trị doanh nghiệp và các khuôn khổ về lập BCTC, bao gồm các yêu cầu và quy định pháp lý cũng định hình nên sự tương tác giữa các bên liên quan chính. Những yếu tố này cũng có thể ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán, đặc điểm và phạm vi của các bằng chứng kiểm toán cần thiết và hiệu Nguồn: A framework for Audit Quality, IAASB (IFAC), 2013 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 năng của quy trình kiểm toán. Tổng hợp các yếu tố thuộc tính có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, IAASB đã đưa ra một số những yếu tố thuộc về đầu vào, kết quả đầu Bảng 1. Các yếu tố quyết định chất lượng kiểm toán Các yếu tố chính Thuộc tính 1. Các yếu tố đầu vào Giá trị Đạo đức Thái độ Cấp độ Hợp đồng dịch vụ - Nhóm kiểm toán phải nhận thức được rằng cuộc kiểm toán được thực hiện trong lợi ích các bên liên quan của đơn vị và lợi ích công chúng rộng hơn. - Tuân thủ các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp: tính khách quan, chính trực, độc lập, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp. Cấp độ hãng kiểm toán - Quan điểm của Ban lãnh đạo doanh nghiệp kiểm toán trong việc thiết lập các biện pháp đảm bảo tính độc lập. - Các đặc điểm mang tính cá nhân cần thúc đẩy vì chất lượng, thông qua thưởng, phạt. - Cung cấp các cơ hội phát triển nghề nghiệp và tiếp cận các công cụ hỗ trợ chất lượng. - Thúc đẩy văn hóa sử dụng tư vấn khi gặp các tình huống yêu cầu. - Xây dựng hệ thống đánh giá, chấp nhận khách hàng chặt chẽ. Cấp độ quốc gia - Các yêu cầu về đạo đức được ban hành rõ ràng cả về các nguyên tắc đạo đức cơ bản và các yêu cầu cụ thể cần được áp dụng. - Các nhà quản lý và các tổ chức nghề nghiệp đảm bảo rằng các nguyên tắc đạo đức được hiểu rõ ràng và các yêu cầu cần được áp dụng một cách nhất quán. - Các thông tin có liên quan đến việc quyết định chấp nhận khách hàng được chia sẻ giữa các hãng kiểm toán. - Kiến thức - Kinh nghiệm - Thời gian Cấp độ hợp đồng dịch vụ - Thành viên Ban Giám đốc (BGĐ) và nhân viên: Có năng lực cần thiết; có hiểu biết về kinh doanh của đơn vị; đưa ra được các xét đoán hợp lý. - Thành viên BGĐ phụ trách hợp đồng tham gia tích cực vào việc đánh giá rủi ro, lập kế hoạch, giám sát công việc của cuộc kiểm toán. - Các thành viên nhóm kiểm toán có kinh nghiệm phù hợp với công việc được giao. - Thành viên BGĐ và nhân viên có đủ thời gian để thực hiện công việc một cách hiệu quả. - Có khả năng tiếp cận ban lãnh đạo khách hàng. Cấp độ hãng kiểm toán - Thành viên BGĐ và nhân viên có đủ thời gian để giải quyết các vấn đề khó phát sinh. - Nhóm kiểm toán được tổ chức hợp lý. - Thành viên BGĐ, nhân viên được đào tạo đầy đủ, phù hợp, có sự đào tạo trong thông qua công việc kiểm toán (traning on-the-job). Cấp độ quốc gia - Quản lý chặt chẽ giấy phép kiểm toán cho các hãng và các cá nhân hành nghề. - Các yêu cầu về đào tạo được quy định rõ ràng và có đầy đủ nguồn lực đào tạo. - Có sự sắp xếp hợp lý và tóm tắt các vấn đề hiện tại và cung cấp hoạt động đào tạo về các quy định, yêu cầu mới trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. - Nghề nghiệp kiểm toán cần được tôn trọng và xác định một vị trí tốt trong nền kinh tế, xã hội để có thể thu hút và giữ chân những cá nhân có chất lượng cao. - Quy trình - Các thủ tục kiểm soát chất lượng Cấp độ hợp đồng dịch vụ - Nhóm kiểm toán tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp, các yêu cầu, quy định của pháp luật có liên quan, và các thủ tục kiểm soát chất lượng của hãng. THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Các yếu tố chính Thuộc tính - Nhóm kiểm toán sử dụng tốt công nghệ thông tin. - Có sự trao đổi hiệu quả giữa các thành viên tham gia cuộc kiểm toán, có thể cả với KTV nội bộ (nếu phù hợp). - Tổ chức thích hợp để đạt được cuộc kiểm toán hiệu quả, hiệu năng. - Sắp xếp, lưu giữ hồ sơ kiểm toán phù hợp. Cấp độ hãng kiểm toán - Phương pháp kiểm toán được sửa đổi phù hợp với chuẩn mực nghề nghiệp và các phát hiện từ các cuộc kiểm tra chất lượng nội bộ hoặc bên ngoài. - Phương pháp kiểm toán khuyến khích các nhân viên áp dụng xét đoán chuyên môn và duy trì thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp một cách thích hợp. - Yêu cầu việc giám sát, soát xét công việc đầy đủ. - Yêu cầu việc ghi chép các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp. - Thủ tục kiểm soát chất lượng phải được thiết lập, chất lượng kiểm toán phải được theo dõi và phải có biện pháp khắc phục. Cấp độ quốc gia - Các chuẩn mực kiểm toán được ban hành nhằm làm rõ các mục tiêu cơ bản cũng như các yêu cầu cụ thể được áp dụng. - Các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra kiểm toán độc lập xem xét các thuộc tính có liên quan đến chất lượng kiểm toán, cả trong hãng kiểm toán và các hợp đồng kiểm toán. - Có hệ thống hiệu quả để điều tra các cáo buộc về những cuộc kiểm toán thất bại trong việc đưa ra ý kiến và thực hiện các biện pháp kỷ luật phù hợp. 2. Các yếu tố đầu ra Giá trị và tính kịp thời của: Cấp độ hợp đồng dịch vụ: - Từ các KTV: Báo cáo của KTV cho người sử dụng thông tin tài chính, cho ban quản trị đơn vị, cho BGĐ, cho cơ quan chức năng - Từ đơn vị được kiểm toán: BCTC đã kiểm toán, báo cáo từ ban quản trị, bao gồm cả BKS - Từ cơ quan quản lý: cung cấp thông tin về từng cuộc kiểm toán Các cấp độ hãng kiểm toán và quốc gia - Từ doanh nghiệp kiểm toán: Báo cáo minh bạch, báo cáo thường niên và báo cáo khác - Từ cơ quan quản lý: báo cáo tổng kết và kết quả kiểm soát chất lượng các doanh nghiệp kiểm toán 3. Các tương tác chính trong chuỗi cung cấp BCTC Sự tương tác hiệu quả giữa: - KTV và BGĐ đơn vị, ban quản trị, người sử dụng BCTC và cơ quan quản lý - BGĐ và ban quản trị, cơ quan quản lý và người sử dụng BCTC - Ban quản trị với cơ quan quản lý và người sử dụng BCTC
Tài liệu liên quan