Ngôn ngữ học - “Chơi cùng ngôn từ” trong tiểu thuyết của Thuận

TÓM TẮT Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có những cách xử lý ngôn từ riêng. Vì thế, ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành sản phẩm sáng tạo độc đáo của mỗi nhà văn. Nó được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn Với quan niệm “Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế để sáng tạo”, nhà văn Thuận hiện diện trước hết như một nhà ngôn ngữ học. Bằng sự am hiểu tường tận về ngôn ngữ, Thuận đã biến ngôn ngữ trở thành một phương diện quan trọng nhằm thực hiện những tham vọng cách tân nghệ thuật. Khảo sát ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, người viết đã chỉ ra được những yếu tố độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn: sự tăng cường những yếu tố tỉnh lược ngữ dụng; hiện tượng lai tạp ngôn ngữ, tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật Đặc biệt, với Thuận, ngôn ngữ còn trở thành một phương tiện để kiến tạo nhịp điệu cho tiểu thuyết thông qua việc mở rộng và thu hẹp không giới hạn những biên độ đoạn văn và câu văn

pdf6 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 851 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngôn ngữ học - “Chơi cùng ngôn từ” trong tiểu thuyết của Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“CHƠI CÙNG NGÔN TỪ” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN Vũ Thị Hạnh*1 Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có những cách xử lý ngôn từ riêng. Vì thế, ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành sản phẩm sáng tạo độc đáo của mỗi nhà văn. Nó được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà vănVới quan niệm “Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế để sáng tạo”, nhà văn Thuận hiện diện trước hết như một nhà ngôn ngữ học. Bằng sự am hiểu tường tận về ngôn ngữ, Thuận đã biến ngôn ngữ trở thành một phương diện quan trọng nhằm thực hiện những tham vọng cách tân nghệ thuật. Khảo sát ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, người viết đã chỉ ra được những yếu tố độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn: sự tăng cường những yếu tố tỉnh lược ngữ dụng; hiện tượng lai tạp ngôn ngữ, tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật Đặc biệt, với Thuận, ngôn ngữ còn trở thành một phương tiện để kiến tạo nhịp điệu cho tiểu thuyết thông qua việc mở rộng và thu hẹp không giới hạn những biên độ đoạn văn và câu văn. Từ khóa: Nhà văn Thuận, tiểu thuyết, ngôn ngữ, tỉnh lược ngữ dụng, lai tạp ngôn ngữ, ngôn ngữ trần thuật MỞ ĐẦU Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã và đang ghi nhận những đổi thay chưa từng có. Với cách tân ở nhiều mức độ khác nhau , các nhà văn như Phạm Thị Hoài , Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương , Nguyễn Ngọc Tư , Nguyễn Huy Thiệp , Nguyễn Xuân Khánh ...đã có những thành tựu đáng kể trong nỗ lực thay đổi để hòa nhịp cùng dòng chảy văn học thế giới. Hòa cùng xu hướng đó , bạn đọc và giới phê bình còn được biết đến tên tuổi của Thuận – một người tuy mới “vào nghề” nhưng đã nhanh chóng tạo được “thương hiệu” thông qua năm tiểu thuyết “trình làng” liên tục trong năm năm qua: Made in Vietnam [12], Chinatown [13], Paris 11 tháng 8 [14], T mất tích [15] và Vân Vy [16]. Mỗi tiểu thuyết là một hành trình thử nghiệm của nhiều lối viết mới mà tất cả đều khởi nguồn từ cuộc phiêu lưu của ngôn từ. Trong bài viết này, người viết xuất phát từ quan niệm về sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn để chỉ ra những đặc điểm cơ bản về ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận cũng như những cách thức sử dụng ngôn ngữ nhằm thực hiện những ý đồ nghệ thuật của nhà văn. 1. Từ quan niệm về sáng tạo nghệ thuật đến ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận Tiểu thuyết của Thuận gắn liền với quan niệm “văn chương là một trò chơi” và theo đó, tiểu thuyết là một trò chơi văn bản (chơi nhân vật, chơi kết cấu, chơi cấu trúc, chơi ngôn ngữ). Nhà văn sáng tạo ra tiểu thuyết nhưng thông qua ngôn từ, người đọc sẽ thực hiện vai trò đồng sáng tạo. Thuận khẳng định: “tác giả rất cần đến sự tham gia của độc giả” [3]. “Nếu trong hàng triệu người đọc thông tiếng Việt mà có được một ít độc giả cho mình thì cũng là điều may” [10]. “Độc giả cho mình” theo cách nói của Thuận – thực chất bao hàm cả sự thách thức, kén chọn và yêu cầu. “Độc giả ngày nay đã thay đổi nhiều. Tôi nghĩ họ “lớn lên” nhiều Rất nhiều nhà văn coi viết là để triển lãm tài năng uyên thâm nên họ nghĩ hộ độc giả từ A đến Z... Tôi thì không dọn một bữa cỗ ăn sẵn như thế.” [4]. Với quan niệm văn chương như vậy, ngôn ngữ trong tiểu thuyết theo quan niệm của Thuận thực chất là một sự thách thức đối với độc giả. Để thách thức độc giả, Thuận đã pha trộn, lai tạp nhiều ngôn ngữ khác nhau nhằm phá vỡ tính thuần khiết của ngôn ngữ văn chương truyền thống, mở đường cho sự “ùa vào” của các yếu tố văn hóa ngoại lai. Sự lai tạp được xây dựng trên cơ sở kết hợp tiếng Việt với những yếu tố ngôn ngữ khác ở nhiều cấp độ: khi thì sử dụng từ gốc Anh/ Pháp, khi thì sử dụng theo cách phiên âm sang tiếng Việt Cách đặt tên, dùng từ, đặt câu trong tiểu thuyết của Thuậnđều xuất hiện hiện tượng này. Sự lai tạp ngôn ngữ trong tiểu thuyết được thể hiện ngay từ nhan đề tác phẩm (Chinatown, Made in Vietnam, I’m yellow, Paris 11 tháng 8), tên các chương đoạn (Chương 7. Gaza [16,75]; Chương 9. Mistral [16,94]; Chương 12. Ice cream Tuổi Hoa Niên [16,134]; Chương 20. Đại hỷ [16, 250]), tên các nhân vật (Paul, Anna, Brunel, Hellen, Mic, Hanal, Hằng, Vĩnh, Thụy, Vân, Vượng) Không dừng lại ở cấu trúc, hiện tượng lai tạp ngôn ngữ còn thể hiện ở nhiều cấp độ nhỏ hơn: câu và các thành phần của câu. Khảo sát trong trong tiểu thuyết của Thuận ta thấy những câu được cấu tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp xuất hiện với tần suất lớn: “The West is too old” [15, 239]; “Its nothing, don‟t be worried‟ [15, 238]; “Socialism is up, bureaucracy is up. What‟s important is money. Fifty fifty, are you ok? Perestroika is very important” [15, 236]; “French comptability is too old” [15, 235], “France is too old; but you are ok? ...the West is old, old ideology, old technology, old mentality” [15, 232]; “We have no more time” [15, 234]; “Shopping is nice in Paris Oh, it‟s very nice; My girl will be happy; it‟s my girl” [15, 229]; “Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi”. [15, 13]; “Spécialités chinoiese et vietnamiennes” [15, 26] Nhỏ hơn cấp độ câu, hiện tượng lai tạp còn xuất hiện ở những từ/ cụm từ giữ vị trí quan trọng: “Stress lắm‟ [13, 12], “rượt Internet” [14, 246], “Nó bảo: Stop” [15, 245]; „Ai mà biết được hai mươi năm về trước cặp đùi chằng chịt gân xanh của bà ta cũng nuột nà thon thả như my girlVova nhìn mặt mũi tôi bần thần thì nháy mắtvery ok in bed. Tôi tin là hắn nói đúngVova nốc rượu như điên, càng nốc càng hăng, hắn kể không ngớt về những thay đổi very important của Mạc – tư – khoa” [15, 230] ; “Vừa bắt tay chúng tôi, vừa bảo: “Shopping is nice in Paris”. Phó giám đốc vội vàng đáp lại: “Oh, It’s very nice”Công nhận my girl đẹp thật, và cực kỳ khêu gợi” [15, 229]. Ngoài sự lai tạp những từ gốc tiếng Anh và tiếng Pháp, trong tiểu thuyết của Thuận còn xuất hiện rất nhiều những từ ghi âm cách đọc tiếng nước ngoài như: xi –líp, đét – xe, đi – văng, dis-co, năm - bơ oăn, phéc- mơ-tuya, a-xit, ca – ta- lô, măng-tô, toa-lét Bên cạnh sự lai tạp ngôn ngữ, Thuận còn tăng cường sử dụng các thuật ngữ chuyên môn khoa học nhưng không chú thích nhằm mục đích thách thức độc giả. Đó là những từ ngữ biểu đạt các khái niệm chuyên môn và để hiểu được những thuật ngữ này, đòi hỏi người đọc phải có một trình độ nhận thức nhất định. Khảo sát năm tiểu thuyết, ta thấy xuất hiện những thuật ngữ chuyên môn và khoa học của nhiều lĩnh vực khác nhau như: thị trường tiêu thụ, thị trường chứng khoán, biểu giá, lợi nhuận, tài chính, marketing, xuất nhập khẩu (kinh tế - tài chính); bẩm sinh, sida, chất béo, axit, màng nhĩ, truyền nhiễm, di truyền, phụ khoa, nhiễm trùng, bì phu, vi khuẩn, virut, vắc – xin, phoóc – môn, X quang, nan y, động mạch, nhồi máu, triệu chứng, tử thi, pháp y, nội tiết (Y học)Sử dụng nhiều những thuật ngữ chuyên môn giúp Thuận có thể rút ngắn độ dài văn bản nhưng vẫn đảm bảo hàm lượng thông tin cần thiết. Đó cũng là con đường để nhà văn hướng đến mô hình tiểu thuyết ngắn. Việc pha trộn những yếu tố ngoại ngữ khác nhau và sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên môn, khoa học là chủ đích lựa chọn và thách thức độc giả của nhà văn. Tiểu thuyết đòi hỏi ở người tiếp nhận phải có trình độ ngoại ngữ và sự am hiểu về nhiều lĩnh vực đa dạng của đời sống. Thay vì “dọn một bữa cỗ ăn sẵn” [4], Thuận bắt người đọc phải tư duy, suy ngẫm thì mới có thể “thưởng thức” được nó. Đây chính là lí do giải thích vì sao không ít độc giả nhận xét rằng tiểu thuyết của Thuận thuộc tạng “khó đọc” và nó “rất gần với mức độ mà một người đọc khó tính đòi hỏi” [15]. Cùng với tiểu thuyết của Thuận, những sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng nổi bật lên ở hiện tượng lai tạp và pha trộn ngôn ngữ. Điểm tương đồng ở hai nhà văn nữ này là ở chỗ: thông qua ngôn ngữ để gây ấn tượng về một thời đại không yên ổn với những luồng tư tưởng văn hoá khác biệt. Đặc biệt, nó còn biểu hiện sự giao tranh quyết liệt để dành chỗ đứng của các yếu tố ngôn ngữ trong thời đại bùng nổ thông tin. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa Thuận và Phạm Thị Hoài là: qua lai tạp, pha trộn và giao tranh, Phạm Thị Hoài phơi bày sự hữu hạn của tiếng Việt còn Thuận lại cho thấy thế mạnh của tiếng mẹ đẻ trong khát vọng biểu đạt tư duy trừu tượng. Đó chính là tình yêu và niềm tự hào đối với ngôn ngữ Việt: “Ngôn ngữ Việt thừa tinh tế để sáng tạo” [10]. 2. Tỉnh lược ngữ dụng - một thủ pháp xây dựng hình tượng nhân vật Bằng sự thông minh và sắc sảo, Thuận đã biến ngôn ngữ thay vì là một chất liệu sáng tạo trở thành một thủ pháp góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua sự tỉnh lược ngữ dụng trong tiểu thuyết, cụ thể là thủ pháp giản lược đối thoại, gia tăng độc thoại. Đối thoại là hành động nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người. Cấu trúc một cuộc đối thoại gồm: người phát ngôn, người nhận phát ngôn và sự luân chuyển thành phần lời giữa hai đối tượng theo cơ chế phản hồi. Trái với đối thoại, độc thoại là lời nội tâm của nhân vật. Nó không phải là lời giao tiếp bởi thực chất nó chưa được phát ngôn ra thành lời nói – do đó, nó chưa thực hiện quá trình truyền thông tin và chưa có sự phản hồi. “Lời độc thoại được chỉ ra bằng các từ “tự nhủ”, “thầm nghĩ” và không phải bao giờ cũng rành rọt mà thường rối ren, lộn xộn, chắp nối. Đó là hình thức tái hiện tính tự phát của dòng ý thức và cảm xúc” [9]. Với quan niệm về đối thoại và độc thoại như trên, ta thấy trên từng trang văn của Thuận, tác giả đã sử dụng tối đa các hình thức tỉnh lược/ giản lược đối thoại và bù lấp nó bằng sự gia tăng độc thoại. Trong tiểu thuyết của Thuận, các cụm từ “im lặng”, “lắc đầu”, “gật đầu”, “không hỏi”, “không trả lời” xuất hiện với tần số lớn, báo hiệu cho thủ pháp tỉnh lược/ giản lược ngữ dụng. Tần số lặp lại của những cụm từ trên được tổng hợp qua bảng thống kê dưới đây: Tác phẩm Im lặng Lắc đầu Gật đầu Chinatown 25 25 9 Paris 11 tháng 8 116 64 93 T mất tích 37 21 29 Vân Vy 55 35 37 Trước tình huống đối thoại, nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận hầu hết đều chọn giải pháp giản lược/ khước từ đối thoại. Thay vì đồng tình, họ chỉ “gật đầu”. Thay vì phản đối, họ chỉ “lắc đầu”. Đa số họ đều “ngại giải thích” và chọn giải pháp im lặng. Trong từng tình huống cụ thể, im lặng có khi biểu đạt cho sự đồng tình, có khi lại là sự phản đối. Nhưng điểm chung giữa chúng là sự lẩn tránh giải thích. Im lặng cũng không phải là không có gì để nói. Im lặng còn là hiện thực hóa sự cô đơn, trống trải, không thể đồng cảm, không thể thấu hiểu, không thể chia sẻ. Nó là minh chứng cho sự cắt đứt và hủy hoại dần đường dây liên kết giữa người với người. Trong T mất tích, nhân vật “Tôi” sợ nhất “căn bệnh” tâm sự. Sự im lặng của T khiến “Tôi” dễ chịu và đó là lí do giải thích vì sao “Tôi” và T có thể sống với nhau trong sáu năm trời. “Tôi” biết gì về T – người vợ sáu năm cùng chung sống? Không gì cả! Tên của T “Tôi” chưa bao giờ gọi. “Tôi” cũng không thể viết được tên của T. T cũng chưa bao giờ gọi tên của “Tôi”. Độc giả ngỡ ngàng trước sự “vụn rời” của các mối quan hệ và càng “vụn rời” hơn khi “trong thâm tâm, tôi nghĩ có lẽ vì thế mà chúng tôi mới tồn tại cạnh nhau hơn sáu năm. Sáu năm là một kỉ lục. Trước đó, tôi chẳng qua nổi với ai quá sáu tuần” [15]. Để bù lấp khoảng trống của đối thoại, Thuận để các nhân vật của mình độc thoại triền miên. Sự tăng cường độc thoại được thể hiện thông qua tần số xuất hiện của các cụm từ: “tự nhủ”, “thầm nghĩ”, “tự hỏi/ tự trả lời”. Khảo sát qua những tiểu thuyết của Thuận, chúng ta sẽ thấy rõ điều này: Với độc thoại nội tâm, Thuận đã diễn tả trạng thái cũng như tính quá trình của dòng ý thức nhân vật. Thuận đã để các nhân vật tự lý giải, tự phân tích, tự giãi bày, tâm sự với chính mình. Hơn nữa, bằng việc giản lược tối đa đối thoại và để cho dòng độc thoại nội tâm triền miên chiếm lĩnh, Thuận lại khắc sâu vào trạng thái cô đơn hoang vắng cũng như sự day dứt, ám ảnh khốn cùng của nhân vật. Thứ ba: Ngôn ngữ - một phương tiện kiến tạo nhịp điệu Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với ngôn ngữ tự sự. Tuy nhiên, đến với ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, chúng ta lại thấy một hiện tượng đặc biệt: đó là thứ ngôn ngữ tự sự giàu nhịp điệu. Toàn bộ Chinatown được bao trùm bởi một nhịp điệu bất thường và dồn dập xuyên suốt tiểu thuyết. “Nhịp điệu đó dựa vào phép lặp: lặp lại một từ, một câu hay cả một đoạn văn, lặp lại một động tác, một lời nói, Tác phẩm Tự nhủ Thầm nghĩ Tự hỏi/Tự trả lời Paris 11 tháng 8 2 7 3 T mất tích 9 5 2 Vân Vy 18 31 12 một cái tên riêng hay cả một nhân vật. Nhịp điệu đó cũng dựa vào những đặc tính của tiếng Việt: đa nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do, thời gian lỏng lẻo. Các ngoại ngữ khác, như tiếng Pháp chẳng hạn, không chấp nhận những câu cụt, những động từ không chia, và vì thế sẽ làm mất đi tính mập mờ giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mộng, giữa tỉnh táo và mộng mị của Chinatown” [4]. Nhịp điệu còn được xây dựng dựa trên cách thức tổ chức ngôn từ độc đáo: đó là sự mở rộng không giới hạn biên độ đoạn văn và thu hẹp biên độ câu văn, tạo nên những câu ngắn, chồng xếp lên nhau. Ta có thể thấy rõ nhịp điệu của ngôn ngữ trong trích đoạn dưới đây: “Sau đó, Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Tôi không biếtThụy đứng cạnh ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì những ngày ấy... Phố nào cũng nhà hai tầng. Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Đến bây giờ tôi cũng không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Mười hai năm rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi... Nhưng tôi muốn biết những ngày ấy Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Trong những ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Những ngày ấy. Những ngày ấy thằng Vĩnh mới một tháng. Nó biết lẫy. Biết bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó đau răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy Thụy đâu. Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ một tuần liền. Không thấy Thụy đâu. Nó nuốt phải hột chôm chôm cấp cứu bệnh viện nhi Thụy Điển. Không thấy Thụy đâu. Nó bị thằng bạn cùng nhà trẻ cắn rách mũi, bị cô giáo phạt quay mặt vào tường, tay sai Bắc Kinh dám bắt nạt thường dân Việt Nam. Không thấy Thụy đâu. Không thấy Thụy đâu. Mười hai năm rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi” [13, 29]. Qua trích đoạn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự “đậm đặc” của phép lặp: lặp câu, lặp từ, lặp cấu trúc. “Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì” lặp lại 5 lần; “Không thấy Thụy đâu” lặp lại đến 6 lần; “những ngày ấy” lặp lại 4 lần. “Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ hoa và hai cái đèn lồng” lặp lại 3 lần. “Mười hai năm rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi” lặp lại 2 lần. Lặp cấu trúc được thể hiện thông qua những cấu trúc câu tương đương. Chinatown được cấu tạo bởi những câu ngắn không xuống hàng. Những câu ngắn lặp lại nhau, như gối lên nhau liên tục tạo thành một nhịp điệu xuyên suốt tác phẩm: “Nó biết lẫy. Biết bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó đau răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy Thụy đâu. Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ một tuần liền. Không thấy Thụy đâu. Nó nuốt phải hột chôm chôm cấp cứu bệnh viện nhi Thụy Điển. Không thấy Thụy đâu. Nó bị thằng bạn cùng nhà trẻ cắn rách mũi, cô giáo phạt quay mặt vào tường, tay sai Bắc Kinh dám bắt nạt thường dân Việt Nam. Không thấy Thụy đâu” [19, 29]. Lựa chọn được ngôn ngữ biểu đạt đúng ý trọng tâm đã khó, khiến cho chúng trở nên uyển chuyển lại càng khó hơn. Nhưng trong tiểu thuyết của mình, Thuận đã làm được điều đó: “Chinatown! Chinatown! Chinatown! Tôi muốn hỏi tại sao”. Câu văn không chỉ uyển chuyển mà còn truyền tải được ý trọng tâm của toàn tác phẩm. Nói về cách sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về Chinatown: “Có thể thích hay không thích, nhưng những cuốn sách như thế này làm chuyển động thẩm mỹ của xã hội và tác động đến những người sáng tác khác”. . 4. Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật thể hiện ở sự hiện diện đồng thời nhiều tiếng nói khác nhau: lời của người trần thuật, lời của nhân vật, lời gián tiếp tự do. Điều này làm nên sự khác biệt giữa tiểu thuyết của Thuận với tiểu thuyết truyền thống (một giọng của tác giả - là loại tiểu thuyết đơn âm). Trong tiểu thuyết của Thuận, tác giả dường như giấu mình, cố giữ thái độ khách quan trước các nhân vật, để cho chúng tự do bộc lộ tư tưởng, tình cảm riêng, Các tư tưởng, tình cảm rất khác nhau, thậm chí đối lập đều có giá trị độc lập và cùng được tôn trọng như nhau. Chính điều này khiến cho tiểu thuyết của Thuận có tính phức điệu. Nhờ đó, mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận đều có một giọng điệu riêng, độc lập, tự nó. Mỗi nhân vật là một cái tôi riêng biệt. Đó có lẽ cũng chính là “sự bình đẳng” mà Thuận đã lên tiếng khẳng định. Ở Chinatown, tính đa âm, nhiều giọng trở thành mục đích của tác giả, tạo thành chủ âm của văn bản tự sự: “Cô giáo chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra gặp riêng. Thày giáo dạy văn gọi tôi ra gặp riêng. Thày giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thư liên đoàn trường gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm. Em nên tập trung để đạt kết quả cao nhất kì thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại danh dự cho toàn trường kỳ thi đại học. Người ta đem trách nhiệm trao cho tôi. Người ta mang thi cử ra làm tôi sợ. Không ai đả động gì đến Thụy.” [13, 7]. Trích đoạn trên cho ta thấy sự vang lên đồng thời giọng của “tôi” kể chuyện và các nhân vật (cô giáo dạy toán, cô giáo chủ nhiệm, thày giáo dạy văn, thày giáo tiếng Anh, bí thư đoàn trường). Mỗi nhân vật đều có giọng điệu riêng. Giọng của các nhân vật (cô giáo, thày giáo, bí thư đoàn, cha mẹ tôi) vang lên thành một bè cao – đa âm, đa giọng – thể hiện cho những bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ bao hàm trong đó cả sự dọa nạt, lấn át. Đan xen vào giữa cái bè cao đó là giọng của “tôi” kể chuyện – đơn lẻ, yếu đuối, lúng túng, hoang mang. Hai giọng điệu này khi đặt cạnh nhau, chúng luôn tìm cách ngốn nuốt lẫn nhau. Nó như ngầm báo trước một cuộc đấu tranh âm thầm, không cân sức mà phần yếu thế thường nghiêng về cái bè thấp hơn. Sự phối hợp, hòa trộn, nối ghép không báo trước của nhiều thành phần lời trần thuật ít nhiều gây hẫng cho độc giả, làm đứt gãy mạch tự sự và tạo ra hiệu quả đặc biệt trong việc khám phá thế giới sâu kín của nhân vật. Nó không chỉ thể hiện sự đứt đoạn, rối bời trong dòng ý thức của nhân vật chính mà còn thể hiện trạng thái day dứt, hoang mang, bất an của nhân vật trong đời sống hiện đại. KẾT LUẬN Tóm lại, bằng sự dụng công trong cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, Thuận hiện diện không chỉ với tư cách là một nhà tiểu thuyết mà còn là một nhà ngôn ngữ học. Dưới ngòi bút của Thuận, những thế mạnh của ngôn từ được khai thác triệt để, tối đa. Nó không chỉ là một chất liệu nghệ thuật đơn thuần mà nó còn là những phương tiện nghệ thuật có giá trị biểu đạt lớn: tham gia xây dựng hình tượng nghệ thuật, kiến tạo nhịp điệu, tạo tính đa âm, nhiều giọng cho tiểu thuyết. Với những thành công đó, Thuận đã phần nào khẳng định được cá tính sáng tạo, phong cách cũng như tài năng nghệ thuật của mình. Đó cũng chính là những đóng góp không nhỏ của Thuận cho nền văn học đương đại nước nhà. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975: một cái nhìn khái quát, Tạp chí Ngh