Văn học là nghệ thuật ngôn từ.
Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có
những cách xử lý ngôn từ riêng. Vì thế,
ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành
sản phẩm sáng tạo độc đáo của mỗi nhà
văn, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo,
phong cách, tài năng nghệ thuật. Với quan
niệm “Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế
để sáng tạo”, Thuận hiện diện trƣớc hết
nhƣ một nhà ngôn ngữ học. Mỗi tiểu
thuyết là một hành trình thử nghiệm của
nhiều lối viết mới mà tất cả đều khởi
nguồn từ cuộc phiêu lƣu của ngôn từ. Bằng
sự am hiểu tƣờng tận về ngôn ngữ, Thuận
đã biến ngôn ngữ trở thành một phƣơng
tiện quan trọng nhằm thực hiện những
tham vọng cách tân nghệ thuật. Trong bài
viết, ngƣời viết xuất phát từ quan niệm về
sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn để chỉ
ra những đặc điểm cơ bản về ngôn từ trong
tiểu thuyết của Thuận: sự tăng cƣờng yếu
tố tỉnh lƣợc ngữ dụng; hiện tƣợng lai tạp
ngôn ngữ, tính đa thanh trong ngôn ngữ
trần thuật Đặc biệt, với Thuận, ngôn ngữ
còn là phƣơng tiện để kiến tạo nhịp điệu
thông qua việc mở rộng và thu hẹp biên độ
đoạn văn và câu văn
1. Từ quan niệm về sáng tạo nghệ thuật
đến ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận
Thuận quan niệm “văn chƣơng là
một trò chơi” và theo đó, tiểu thuyết là một
trò chơi văn bản. Nhà văn sáng tạo ra tiểu
thuyết nhƣng thông qua ngôn từ, ngƣời đọc
sẽ thực hiện vai trò đồng sáng tạo. Thuận
khẳng định: “tác giả rất cần đến sự tham
gia của độc giả”. Vì thế, “Nếu trong hàng
triệu ngƣời đọc thông tiếng Việt mà có
đƣợc một ít độc giả cho mình thì cũng là
điều may” [3]. “Độc giả cho mình” theo
cách nói của Thuận – thực chất bao hàm sự
thách thức, kén chọn và yêu cầu. “Độc giả
ngày nay đã thay đổi nhiều. Tôi nghĩ họ
“lớn lên” nhiều Rất nhiều nhà văn
nghĩ hộ độc giả từ A đến Z. Tôi thì
không dọn một bữa cỗ ăn sẵn nhƣ thế.” [1].
Với quan niệm văn chƣơng nhƣ vậy, ngôn
ngữ trong tiểu thuyết của Thuận thực chất
là một sự thách thức đối với độc giả.
Để thách thức độc giả, Thuận đã
pha trộn, lai tạp nhiều ngôn ngữ khác nhau
nhằm phá vỡ tính thuần khiết của ngôn ngữ
văn chƣơng truyền thống, mở đƣờng cho
sự “ùa vào” của các yếu tố văn hóa ngoại
7 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngôn ngữ học - Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Thuận
VŨ THỊ HẠNH, NGUYỄN THỊ DIỆU LINH
Thái Nguyên
Văn học là nghệ thuật ngôn từ.
Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có
những cách xử lý ngôn từ riêng. Vì thế,
ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành
sản phẩm sáng tạo độc đáo của mỗi nhà
văn, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo,
phong cách, tài năng nghệ thuật. Với quan
niệm “Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế
để sáng tạo”, Thuận hiện diện trƣớc hết
nhƣ một nhà ngôn ngữ học. Mỗi tiểu
thuyết là một hành trình thử nghiệm của
nhiều lối viết mới mà tất cả đều khởi
nguồn từ cuộc phiêu lƣu của ngôn từ. Bằng
sự am hiểu tƣờng tận về ngôn ngữ, Thuận
đã biến ngôn ngữ trở thành một phƣơng
tiện quan trọng nhằm thực hiện những
tham vọng cách tân nghệ thuật. Trong bài
viết, ngƣời viết xuất phát từ quan niệm về
sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn để chỉ
ra những đặc điểm cơ bản về ngôn từ trong
tiểu thuyết của Thuận: sự tăng cƣờng yếu
tố tỉnh lƣợc ngữ dụng; hiện tƣợng lai tạp
ngôn ngữ, tính đa thanh trong ngôn ngữ
trần thuật Đặc biệt, với Thuận, ngôn ngữ
còn là phƣơng tiện để kiến tạo nhịp điệu
thông qua việc mở rộng và thu hẹp biên độ
đoạn văn và câu văn
1. Từ quan niệm về sáng tạo nghệ thuật
đến ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận
Thuận quan niệm “văn chƣơng là
một trò chơi” và theo đó, tiểu thuyết là một
trò chơi văn bản. Nhà văn sáng tạo ra tiểu
thuyết nhƣng thông qua ngôn từ, ngƣời đọc
sẽ thực hiện vai trò đồng sáng tạo. Thuận
khẳng định: “tác giả rất cần đến sự tham
gia của độc giả”. Vì thế, “Nếu trong hàng
triệu ngƣời đọc thông tiếng Việt mà có
đƣợc một ít độc giả cho mình thì cũng là
điều may” [3]. “Độc giả cho mình” theo
cách nói của Thuận – thực chất bao hàm sự
thách thức, kén chọn và yêu cầu. “Độc giả
ngày nay đã thay đổi nhiều. Tôi nghĩ họ
“lớn lên” nhiều Rất nhiều nhà văn
nghĩ hộ độc giả từ A đến Z... Tôi thì
không dọn một bữa cỗ ăn sẵn nhƣ thế.” [1].
Với quan niệm văn chƣơng nhƣ vậy, ngôn
ngữ trong tiểu thuyết của Thuận thực chất
là một sự thách thức đối với độc giả.
Để thách thức độc giả, Thuận đã
pha trộn, lai tạp nhiều ngôn ngữ khác nhau
nhằm phá vỡ tính thuần khiết của ngôn ngữ
văn chƣơng truyền thống, mở đƣờng cho
sự “ùa vào” của các yếu tố văn hóa ngoại
lai. Sự lai tạp đƣợc xây dựng trên cơ sở kết
hợp tiếng Việt với những yếu tố ngôn ngữ
khác ở nhiều cấp độ: khi thì sử dụng từ gốc
Anh/ Pháp, khi thì sử dụng theo cách phiên
âm sang tiếng Việt Cách đặt tên, dùng
từ, đặt câu trong tiểu thuyết của Thuận đều
xuất hiện hiện tƣợng này.
Sự lai tạp ngôn ngữ đƣợc thể hiện
ngay từ nhan đề tác phẩm: Chinatown,
Made in Vietnam, Paris 11 tháng 8. Tên
các chƣơng đoạn, tên nhân vật cũng xuất
hiện hiện tƣợng này: Chƣơng 7. Gaza [6,
75]; Chƣơng 9. Mistral [6, 94]; Chƣơng
12. Ice cream Tuổi Hoa Niên [6, 134].
Không dừng lại ở cấu trúc, hiện
tƣợng lai tạp ngôn ngữ còn thể hiện ở cấp
độ nhỏ hơn: câu và các thành phần của
câu. Khảo sát trong trong tiểu thuyết của
Thuận ta thấy những câu đƣợc cấu tạo
hoàn toàn bằng tiếng Anh và tiếng Pháp
xuất hiện với tần suất lớn: “The West is
too old” [5, 239]; “Its nothing, don’t be
worried’ [5, 238]; “Socialism is up,
bureaucracy is upWhat’s important is
money. Fifty fifty, are you ok? Perestroika
is very important” [5, 236]; “France is too
old; but you are ok? The West is old, old
ideology, old technology, old mentality”
[5, 232]; “Un milliard de chinois. Et moi.
Et moi. Et moi”. [5, 13]; “Spécialités
chinoiese et vietnamiennes” [5, 26].
Dƣới cấp độ câu, hiện tƣợng lai tạp
còn thể hiện qua những từ/ cụm từ giữ vị
trí quan trọng trong câu: “Stress lắm” [4,
12], “rƣợt Internet” [14, 246], “Nó bảo:
Stop” [5, 245]; “nuột nà thon thả nhƣ
my girlVova nháy mắtvery ok in
bed. những thay đổi very important”
[5, 230] ; “Vừa bắt tay chúng tôi, vừa bảo:
“Shopping is nice in Paris”. Phó giám
đốc đáp lại: “Oh, It’s very nice”Công
nhận my girl đẹp thật” [5, 229].
Ngoài ra, trong tiểu thuyết của
Thuận còn xuất hiện rất nhiều những từ ghi
âm cách đọc tiếng nƣớc ngoài nhƣ: xi –líp,
đét – xe, đi – văng, dis-co, năm - bơ oăn,
phéc-mơ-tuya, a-xit, ca – ta- lô
Bên cạnh sự lai tạp ngôn ngữ Thuận
còn tăng cƣờng sử dụng các thuật ngữ
chuyên môn nhƣng không chú thích nhằm
mục đích thách thức độc giả. Đó là những
từ ngữ biểu đạt các khái niệm chuyên môn
và để hiểu đƣợc những thuật ngữ này, đòi
hỏi ngƣời đọc phải có một trình độ nhận
thức nhất định. Khảo sát trong tiểu thuyết
của Thuận, ta thấy xuất hiện những thuật
ngữ chuyên môn và khoa học của nhiều
lĩnh vực khác nhau nhƣ: chứng khoán, biểu
giá, lợi nhuận, tài chính, marketing, xuất
nhập khẩu (kinh tế - tài chính); sida, axit,
truyền nhiễm, phụ khoa, nhiễm trùng, bì
phu, vi khuẩn, virut, vắc – xin, phoóc –
môn, X quang, nan y, động mạch, nhồi
máu, triệu chứng, tử thi, pháp y, nội tiết (Y
học)Sử dụng những thuật ngữ chuyên
môn giúp Thuận rút ngắn độ dài văn bản
nhƣng vẫn đảm bảo hàm lƣợng thông tin
cần thiết. Đó cũng là con đƣờng để nhà văn
hƣớng đến mô hình tiểu thuyết ngắn.
Việc pha trộn những yếu tố ngoại
ngữ khác nhau và sử dụng nhiều thuật ngữ
chuyên môn, khoa học là chủ đích lựa chọn
và thách thức độc giả của nhà văn. Tiểu
thuyết đòi hỏi ở ngƣời tiếp nhận phải có
trình độ ngoại ngữ và sự am hiểu về nhiều
lĩnh vực đa dạng của đời sống. Thay vì
“dọn một bữa cỗ ăn sẵn” [1], Thuận bắt
ngƣời đọc phải tƣ duy, suy ngẫm thì mới
có thể “thƣởng thức” đƣợc nó. Đây chính
là lí do giải thích vì sao không ít độc giả
nhận xét rằng tiểu thuyết của Thuận thuộc
tạng “khó đọc” và nó “rất gần với mức độ
mà một ngƣời đọc khó tính đòi hỏi” [5].
Cùng với tiểu thuyết của Thuận,
những sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng
nổi bật lên ở hiện tƣợng lai tạp và pha trộn
ngôn ngữ. Điểm tƣơng đồng ở hai nhà văn
nữ này là ở chỗ: thông qua ngôn ngữ để
gây ấn tƣợng về một thời đại không yên ổn
với những luồng tƣ tƣởng văn hoá khác
biệt. Đặc biệt, nó còn biểu hiện sự giao
tranh quyết liệt để dành chỗ đứng của các
yếu tố ngôn ngữ trong thời đại bùng nổ
thông tin. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn
nhất giữa Thuận và Phạm Thị Hoài là: qua
lai tạp, pha trộn và giao tranh, Phạm Thị
Hoài phơi bày sự hữu hạn của tiếng Việt
còn Thuận lại cho thấy thế mạnh của tiếng
mẹ đẻ trong khát vọng biểu đạt tƣ duy trừu
tƣợng. Đó chính là tình yêu và niềm tự hào
đối với ngôn ngữ Việt: “Ngôn ngữ Việt
thừa tinh tế để sáng tạo” [3].
2. Tỉnh lược ngữ dụng - một thủ pháp
xây dựng hình tượng nhân vật
Bằng sự thông minh và sắc sảo,
Thuận đã biến ngôn ngữ thay vì là một
chất liệu sáng tạo trở thành một thủ pháp
góp phần quan trọng trong việc xây dựng
hình tƣợng nghệ thuật. Điều này đƣợc thể
hiện rất rõ thông qua sự tỉnh lƣợc ngữ dụng
trong tiểu thuyết, cụ thể là thủ pháp giản
lƣợc đối thoại, gia tăng độc thoại.
Đối thoại là hành động nói chuyện
giữa hai hay nhiều ngƣời. Nó cần có ngƣời
phát ngôn, ngƣời nhận phát ngôn và sự
luân chuyển thành phần lời giữa hai đối
tƣợng. Khác với đối thoại, q Thuận đã sử
dụng tối đa các hình thức tỉnh lƣợc/ giản
lƣợc đối thoại và bù lấp nó bằng sự gia
tăng độc thoại trong tiểu thuyết của mình.
Trong tiểu thuyết của Thuận, cụm
từ “im lặng”, “lắc đầu”, “gật đầu”, xuất
hiện với tần số lớn, báo hiệu cho thủ pháp
tỉnh lƣợc/ giản lƣợc ngữ dụng. Tần số lặp
lại của những cụm từ trên đƣợc thể hiện
qua bảng dƣới đây:
Tác phẩm Im
lặng
Lắc
đầu
Gật
đầu
Chinatown 25 25 9
Paris 11 tháng 8 116 64 93
T mất tích 37 21 29
Vân Vy 55 35 37
Trƣớc tình huống đối thoại, nhân
vật trong tiểu thuyết thƣờng chọn giải pháp
giản lƣợc/ khƣớc từ đối thoại. Thay vì
đồng tình, họ chỉ “gật đầu”. Thay vì phản
đối, họ chỉ “lắc đầu”. Đa số họ đều “ngại
giải thích” và chọn giải pháp im lặng.
Trong từng tình huống cụ thể, im lặng có
khi biểu đạt cho sự đồng tình, có khi lại là
sự phản đối. Nhƣng điểm chung giữa
chúng là sự lẩn tránh giải thích. Im lặng
cũng không phải là không có gì để nói. Im
lặng còn là hiện thực hóa sự cô đơn, trống
trải, không thể đồng cảm, không thể thấu
hiểu, không thể chia sẻ. Nó là minh chứng
cho sự cắt đứt và hủy hoại dần đƣờng dây
liên kết giữa ngƣời với ngƣời. Trong T mất
tích, sự im lặng của T khiến “Tôi” dễ chịu
và đó là lí do giải thích vì sao “Tôi” và T
có thể sống với nhau trong sáu năm trời.
“Tôi” biết gì về T – ngƣời vợ sáu năm
cùng chung sống? Không gì cả! Tên của T
“Tôi” chƣa bao giờ gọi. T cũng chƣa bao
giờ gọi tên của “Tôi”. Độc giả ngỡ ngàng
trƣớc sự “vụn rời” của các mối quan hệ khi
“trong thâm tâm, tôi nghĩ vì thế chúng tôi
mới tồn tại cạnh nhau hơn sáu năm” [5].
Thay vì đối thoại, Thuận để các
nhân vật độc thoại triền miên. Điều này
đƣợc thể hiện thông qua tần số xuất hiện
của các cụm từ: “tự nhủ”, “thầm nghĩ”, “tự
hỏi/ tự trả lời” trong bảng dƣới đây:
Tác phẩm Tự
nhủ
Thầm
nghĩ
Tự hỏi/ tự
trả lời
Paris 11
tháng 8
2 7 3
T mất tích 9 5 2
Vân Vy 18 31 12
Với độc thoại nội tâm, Thuận đã
diễn tả trạng thái cũng nhƣ tính quá trình
của dòng ý thức nhân vật. Thuận đã để các
nhân vật tự lý giải, tự phân tích, tự giãi
bày, tâm sự với chính mình. Bằng việc
thay thế đối thoại bằng những dòng độc
thoại triền miên, Thuận khắc sâu vào trạng
thái cô đơn hoang vắng, sự day dứt, ám
ảnh khốn cùng của nhân vật.
Thứ ba: Ngôn ngữ - một phương tiện
kiến tạo nhịp điệu
Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của
ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với
ngôn ngữ tự sự. Tuy nhiên, đến với ngôn
ngữ trong tiểu thuyết của Thuận, chúng ta
lại thấy đó là thứ ngôn ngữ tự sự giàu nhịp
điệu.
Toàn bộ Chinatown đƣợc bao trùm
bởi một nhịp điệu bất thƣờng và dồn dập.
“Nhịp điệu đó dựa vào phép lặp: lặp lại
một từ, một câu hay cả một đoạn văn, lặp
lại một động tác, một lời nói, một cái tên
riêng hay cả một nhân vật. Nhịp điệu đó
dựa vào những đặc tính của tiếng Việt: đa
nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do, thời gian
lỏng lẻo. Các ngoại ngữ khác, nhƣ tiếng
Pháp chẳng hạn, không chấp nhận những
câu cụt, những động từ không chia, và vì
thế sẽ làm mất đi tính mập mờ giữa quá
khứ và hiện tại, giữa thực và mộng, giữa
tỉnh táo và mộng mị của Chinatown” [1].
Nhịp điệu còn đƣợc xây dựng dựa
trên cách thức tổ chức ngôn từ độc đáo
nhƣ: sự mở rộng không giới hạn biên độ
đoạn văn, sự thu hẹp biên độ câu văn tạo
nên những câu ngắn, chồng xếp lên nhau.
Ta có thể thấy nhịp điệu của ngôn ngữ
trong trích đoạn dƣới đây:
“Sau đó, Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì.
Tôi không biếtThụy đứng cạnh ngôi nhà
hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn
lồng. Tôi không biết Thụy ở đâu, gặp ai,
làm gì những ngày ấy... Phố nào cũng nhà
hai tầng. Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa,
hai cái đèn lồng. Tôi không biết Thụy ở
đâu, gặp ai, làm gì. Đến bây giờ tôi cũng
không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì.
Mƣời hai năm rồi tôi muốn gặp Thụy để
hỏi... Nhƣng tôi muốn biết những ngày ấy
Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Trong những
ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai
cái đèn lồng. Những ngày ấy. Những ngày
ấy thằng Vĩnh mới một tháng. Nó biết lẫy.
Biết bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó
đau răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy
Thụy đâu. Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ
một tuần liền. Không thấy Thụy đâu. Nó
nuốt phải hột chôm chôm cấp cứu bệnh
viện nhi Thụy Điển. Không thấy Thụy đâu.
Nó bị thằng bạn cùng nhà trẻ cắn rách mũi,
bị cô giáo phạt quay mặt vào tƣờng, tay sai
Bắc Kinh dám bắt nạt thƣờng dân Việt
Nam. Không thấy Thụy đâu. Không thấy
Thụy đâu” [4, 29].
Qua trích đoạn, chúng ta nhận thấy
sự “đậm đặc” của phép lặp: lặp câu, lặp từ,
lặp cấu trúc. “Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì”
lặp lại 5 lần; “Không thấy Thụy đâu” lặp
lại 6 lần; “những ngày ấy” lặp lại 4 lần.
“Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ hoa và hai
cái đèn lồng” lặp lại 3 lần. “Mƣời hai năm
rồi tôi muốn gặp Thụy để hỏi” lặp lại 2 lần.
Lặp cấu trúc đƣợc thể hiện thông
qua những câu tƣơng đƣơng. Chinatown
đƣợc cấu tạo bởi những câu ngắn không
xuống hàng. Những câu ngắn lặp lại nhau,
nhƣ gối lên nhau liên tục tạo thành một
nhịp điệu xuyên suốt tác phẩm.
Lựa chọn đƣợc ngôn ngữ biểu đạt
đúng ý trọng tâm đã khó, khiến cho chúng
trở nên uyển chuyển lại càng khó hơn.
Nhƣng trong tiểu thuyết của mình, Thuận
đã làm đƣợc điều đó: “Chinatown!
Chinatown! Chinatown! Tôi muốn hỏi tại
sao”. Câu văn không chỉ uyển chuyển mà
còn truyền tải đƣợc ý trọng tâm của toàn
tác phẩm. Nói về cách sử dụng ngôn ngữ
trong tiểu thuyết của Thuận, nhà văn
Nguyên Ngọc đã nhận xét về Chinatown:
“Có thể thích hay không thích, nhƣng
những cuốn sách nhƣ thế này làm chuyển
động thẩm mỹ của xã hội và tác động đến
những ngƣời sáng tác khác”.
4. Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần
thuật
Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần
thuật thể hiện ở sự hiện diện đồng thời
nhiều tiếng nói khác nhau: lời của ngƣời
trần thuật, lời của nhân vật, lời gián tiếp tự
do. Điều này làm nên sự khác biệt giữa
tiểu thuyết của Thuận với tiểu thuyết
truyền thống (một giọng của tác giả - tiểu
thuyết đơn âm).
Trong tiểu thuyết của Thuận, tác giả
dƣờng nhƣ giấu mình, cố giữ thái độ khách
quan trƣớc nhân vật, để cho chúng tự do
bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm riêng, Các tƣ
tƣởng, tình cảm khác nhau, thậm chí đối
lập đều có giá trị độc lập và cùng đƣợc tôn
trọng nhƣ nhau. Chính điều này khiến cho
tiểu thuyết của Thuận có tính phức điệu.
Nhờ đó, mỗi nhân vật trong tiểu thuyết của
Thuận đều có một giọng điệu riêng, độc
lập, tự nó. Mỗi nhân vật là một cái tôi
riêng biệt. Đó có lẽ cũng chính là “sự bình
đẳng” mà Thuận đã lên tiếng khẳng định.
Ở Chinatown, tính đa âm, nhiều
giọng trở thành mục đích của tác giả, tạo
thành chủ âm của văn bản tự sự: “Cô giáo
chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy
toán gọi tôi ra gặp riêng. Thày giáo dạy
văn gọi tôi ra gặp riêng. Thày giáo tiếng
Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thƣ liên đoàn
trƣờng gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập
trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm.
Em nên tập trung để đạt kết quả cao nhất kì
thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại
danh dự cho toàn trƣờng kỳ thi đại học.
Ngƣời ta đem trách nhiệm trao cho tôi.
Ngƣời ta mang thi cử ra làm tôi sợ.” [4, 7].
Trích đoạn trên cho ta thấy sự vang
lên đồng thời giọng của “tôi” kể chuyện và
các nhân vật. Mỗi nhân vật đều có giọng
điệu riêng. Giọng của các nhân vật (cô
giáo, thày giáo, bí thƣ đoàn, cha mẹ tôi)
vang lên thành một bè cao – đa âm, đa
giọng – thể hiện cho những bổn phận, trách
nhiệm, nghĩa vụ bao hàm trong đó cả sự
dọa nạt, lấn át. Đan xen vào giữa cái bè
cao đó là giọng của “tôi” kể chuyện – đơn
lẻ, yếu đuối, lúng túng, hoang mang. Hai
giọng điệu này khi đặt cạnh nhau, chúng
luôn tìm cách ngốn nuốt lẫn nhau. Nó nhƣ
ngầm báo trƣớc một cuộc đấu tranh âm
thầm, không cân sức mà phần yếu thế
thƣờng nghiêng về cái bè thấp hơn.
Sự phối hợp, hòa trộn, nối ghép
không báo trƣớc của nhiều thành phần lời
trần thuật ít nhiều gây hẫng cho độc giả,
làm đứt gãy mạch tự sự và tạo ra hiệu quả
đặc biệt trong việc khám phá thế giới sâu
kín của nhân vật. Nó không chỉ thể hiện sự
đứt đoạn, rối bời trong dòng ý thức của
nhân vật chính mà còn thể hiện trạng thái
day dứt, hoang mang, bất an của nhân vật
trong đời sống hiện đại.
Tóm lại, bằng sự dụng công trong
cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, Thuận
hiện diện không chỉ với tƣ cách là một nhà
tiểu thuyết mà còn là một nhà ngôn ngữ
học. Dƣới ngòi bút của Thuận, những thế
mạnh của ngôn từ đƣợc khai thác triệt để.
Nó không chỉ là một chất liệu nghệ thuật
đơn thuần mà nó còn là những phƣơng tiện
nghệ thuật có giá trị biểu đạt lớn: tham gia
xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, kiến tạo
nhịp điệu, tạo tính đa âm, nhiều giọng cho
tiểu thuyết. Với những thành công đó,
Thuận đã phần nào khẳng định đƣợc cá
tính sáng tạo, phong cách cũng nhƣ tài
năng nghệ thuật của mình. Đó cũng chính
là những đóng góp không nhỏ của Thuận
cho nền văn học đƣơng đại nƣớc nhà.
______________________
1. PHONG ĐIỆP, Thuận: Viết để phá vỡ sự
cân bằng,
2. PHƢƠNG LỰU, Lý luận văn học, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 2000.
3. LAN NGỌC, Thuận: Ngôn ngữ Việt thừa
hiện đại và tinh tế để sáng tạo,
4. THUẬN, Chinatown, NXB Đà Nẵng, 2004
5. THUẬN, T mất tích, NXB Hội Nhà văn và
Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã
Nam, 2006
6. THUẬN, Vân Vy, NXB Hội Nhà Văn và
Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã
Nam, 2008