Cùng với sự trưởng thành của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, các công ty niêm
yết đã phát triển góp phần to lớn làm nên diện mạo của TTCK ngày nay.
Tuy nhiên, trải qua những bước thăng trầm của nền kinh tế trong và ngoài nước, các công
ty niêm yết cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại trên bước đường phát triển của mình. Một số
các công ty niêm yết đã lâm vào tình trạng khó khăn đến mức không còn khả năng thanh khoản,
thua lỗ kéo dài, các khoản nợ vượt quá giá trị tổng tài sản của công ty, thường được hiểu như trạng
thái kiệt quệ tài chính.
Bài viết này nhằm nghiên cứu tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài
chính; nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính và biện pháp tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ tài chính.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính tại các công ty niêm yết và biện pháp tái cơ cấu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NGUYÊN NHÂN GÂY RA TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI
CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ BIỆN PHÁP
TÁI CƠ CẤU
Bùi Kim Yến *, Trần Triệu Anh Khoa**
TÓM TẮT
Cùng với sự trưởng thành của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, các công ty niêm
yết đã phát triển góp phần to lớn làm nên diện mạo của TTCK ngày nay.
Tuy nhiên, trải qua những bước thăng trầm của nền kinh tế trong và ngoài nước, các công
ty niêm yết cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại trên bước đường phát triển của mình. Một số
các công ty niêm yết đã lâm vào tình trạng khó khăn đến mức không còn khả năng thanh khoản,
thua lỗ kéo dài, các khoản nợ vượt quá giá trị tổng tài sản của công ty, thường được hiểu như trạng
thái kiệt quệ tài chính.
Bài viết này nhằm nghiên cứu tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài
chính; nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính và biện pháp tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ tài chính.
Từ khoá: Kiệt quệ tài chính, tái cấu trú, nguyên nhân nội sinh, nguyên nhân ngoại sinh.
CAUSES STATE CAUSE BANKRUPT THEM FINANCIALLY IN COMPANIES
AND RESTRUCTURING MEASURES
ABSTRACT
Along with the maturity of the securities market (stock market) Vietnam, the company was
developing membranes Although a major contributor to be the face of the stock market today.
However, going through the ups and downs of the economy steps in and outside the country,
the company has listing Yet no less difficult obstacle on the way of its development. A number of listed
companies in the state however was difficulty level is no longer Able to liquidity, losses sustained, the
debt exceeded the total asset value of the company, often be understood as the state exhausted User.
This article aims to study the theory and other review previous studies on financial
exhaustion; cause cause, bankrupt them financially and measures to restructure the company after
the financial exhaustion.
Keywords: bankrupt them financially, permanent restructuring, endogenous causes,
exogenous causes.
* PGS.TS. Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
** Chuyên viên Liên Việt Postbank
23
Nguyên nhân gây ra . . .
1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ
CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KIỆT QUỆ TÀI
CHÍNH
1.1. Tổng quan lý thuyết
1.1.1. Khái niệm về kiệt quệ tài chính
Gestel cùng với các đồng sự (2006) mô tả
kiệt quệ tài chính là kết quả của sự thua lỗ kéo
dài mà nguyên nhân là do sự gia tăng không
cân xứng về công nợ kèm theo sự sụt giảm
trong giá trị tài sản.
Gordon (1971) nhấn mạnh rằng kiệt quệ
tài chính chỉ là một giai đoạn trong một quá
trình mà tiếp theo sau đó là sự thất bại và tái
cấu trúc. Công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ
tài chính khi mà khả năng tạo ra lợi nhuận sụt
giảm và giá trị của các khoản nợ vượt quá giá
trị tổng tài sản của công ty.
Trong bài nghiên cứu của Gilbert và đồng
sự (1990), công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ
tài chính sẽ có sự lựa chọn để tái cơ cấu nợ
nhằm đạt được một mức độ thích hợp để duy
trì khả năng thanh toán hay nộp đơn phá sản.
1.1.2. Nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài
chính
Kiệt quệ tài chính là một quá trình chuyển
đổi linh hoạt và phức tạp các yếu tố khác nhau
gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính của công
ty. Các yếu tố này được phân thành hai loại:
các yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh.
Các yếu tố nội sinh đóng vai trò là nguyên
nhân gây nên tình trạng kiệt quệ tài chính của
công ty bao gồm: kinh nghiệm quản lý yếu
kém dẫn đến các quyết định tài chính sai lầm,
chậm đổi mới khoa học công nghệ nâng cao
chất lượng sản phẩm dẫn đến năng lực cạnh
tranh thấp và hoạt động kinh doanh thua lỗ
kéo dài, thiếu vốn hoạt động dẫn đến công ty
sẽ bỏ qua những cơ hội kinh doanh tốt, thanh
khoản kém và làm suy giảm uy tín cùa công
ty trên thị trường.
Các yếu tố ngoại sinh đa phần đến từ các
tác nhân của chính sách kinh tế vĩ mô và thị
trường bao gồm: suy thoái kinh tế, lạm phát
biến động bất lợi tỷ giá hối đoái, lãi suất cho
vay tăng cao, thay đổi bất lợi trong các chính
sách của chính phủ.
Việc xác định các nguyên nhân gây ra tình
trạng kiệt quệ tài chính thường được dựa vào
các nghiên cứu thực nghiệm.
Karels và Prakash (1987), phân loại các
yếu tố gây ra kiệt quệ tài chính thành hai
nhóm: nhóm các yếu tố rủi ro nội bộ và nhóm
các yếu tố bên ngoài. Nhóm các yếu tố rủi
ro nội bộ thông thường liên quan đến các kỹ
năng quản lý công ty, các quyết định tài chính
mà qua đó gây tác động đến tình trạng của
công ty. Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động
đến công ty thông thường là sự biến động
trong chính sách kinh tế, bất ổn của thị trường
lao động hay thảm họa tự nhiên.
Nghiên cứu của Bibeault (1983) chỉ ra
rằng có 5 yếu tố bên ngoài gây ra tình trạng
kiệt quệ tài chính của công ty là: biến động
của nền kinh tế, biến động môi trường cạnh
tranh, thay đổi các yếu tố xã hội và thay đổi
khoa học công nghệ. Kết quả nghiên cứu của
ông cho thấy 41% công ty phá sản là do sự
tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô, 31% là
do môi trường cạnh tranh thay đổi, 13% là do
những thay đổi bất lợi trong chính sách của
chính phủ và 15% là chịu sự tác động của thay
đổi xã hội và khoa học công nghệ. Tuy nhiên,
80% các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài
chính là do sự tác động của các yếu tố quản lý,
cụ thể là thiếu năng lực quản lý. Theo nghiên
cứu của Whitaker (1999), các công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính do yếu tố nội bộ
(yếu kém trong quản lý) chiếm 76,8%, các
công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính
do chịu tác động của cả hai yếu tố bên trong
24
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
và bên ngoài là 37,5%. Cuối cùng chỉ có 9,4%
trong các công ty là do ảnh hưởng của yếu tố
bên ngoài.
Nghiên cứu của Andrade và Kaplan
(1998) cho thấy tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao là
nguyên nhân chính đẩy công ty rơi vào tình
trạng kiệt quệ tài chính bởi vì đây là lý do gây
thiếu hụt tiền mặt trong công ty.
1.1.3. Tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ
tài chính
Khi rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính,
công ty sẽ phải đưa ra các quyết định liên
quan đến hai vấn đề chính, đó là: tái cơ cấu tài
sản và tái cơ cấu tài chính.
Các biện pháp tái cơ cấu tài sản bao
gồm:
y Bán tài sản, đây được xem là giải pháp
giảm thiểu khó khăn tài chính tạm thời. Nguồn
tiền từ việc bán tháo tài sản có thể được sử
dụng để giảm dư nợ hay thực hiện các cơ hội
đầu tư mới. Việc bán tài sản của nhiều công
ty được coi là động lực chính để cân đối tài
chính. Vì ở thời điểm hiện tại, tiền mặt vẫn
quan trọng hơn lợi nhuận.
y Sát nhập với công ty khác là hình thức
kết hợp mà hai công ty thường có cùng quy
mô, thống nhất gộp chung cổ phần. Công ty bị
sáp nhập chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp
nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công
ty bị sáp nhập để trở thành một công ty mới.
Biện pháp này đưa lại lợi ích to lớn cho tất cả
các bên tham gia. Nó không chỉ giúp các công
ty lớn giảm chi phí đầu tư, giúp các công ty
yếu kém thoát khỏi nguy cơ phá sản mà còn
giúp công ty mới tạo ra sau có đầy đủ các tiềm
lực và thuận lợi để phát triển lớn mạnh và đạt
được lợi thế cạnh tranh trên thương trường.
Đây là biện pháp hiệu quả đối với hầu hết các
công ty kiệt quệ tài chính.
y Các biện pháp tái cơ cấu tài chính bao
gồm:
y Tăng vốn cổ phần: hay nói cách khác là
sử dụng biện pháp tài trợ bằng vốn. Một công
ty kiệt quệ tài chính thường thiếu thanh khoản
và cần được tài trợ theo tiến độ trong quá trình
giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính. Do đó,
khả năng thu hút nguồn vốn mới của công ty
là rất quan trọng cho sự sống còn của công
ty. Tuy nhiên, trong trường hợp kiệt quệ tài
chính công ty gặp khó khăn trong việc tiếp
cận nguồn vốn mới thông biện pháp tài trợ
bằng nợ. Sử dụng biện pháp tài trợ bằng vốn
có thể xem như là một cứu cánh của công ty
trong tình hình hiện tại.
y Cơ cấu lại nợ: là một quá trình cho phép
con nợ là công ty kiệt quệ tài chính đàm phán
với các chủ nợ của mình để sửa đổi các điều
khoản của hợp đồng nợ chưa thanh toán nhằm
giảm nghĩa vụ nợ của công ty và cải thiện tình
hình tài chính tổng thể. Việc cơ cấu lại nợ có
thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, bao gồm việc thay đổi kỳ hạn trả nợ,
thời gian trả nợ, số lần trả nợ, số tiền trả nợ
từng lần Có nhiều cách tiếp cận khác nhau
đối với thực tế này. Các chủ nợ hỗ trợ cơ cấu
lại các khoản nợ của công ty, qua đó giúp
công ty trong việc đối đầu và vượt qua những
khó khăn ngắn hạn, mà các chủ nợ này tin
rằng, những khó khăn đó sẽ được công ty xử
lý, khắc phục một cách hiệu quả cùng với sự
phục hồi của nền kinh tế trong tương lai; nhờ
đó tối đa hóa khả năng thu hồi nợ của chủ nợ.
y Vốn hóa nợ: là một quá trình chuyển nợ
thành vốn góp, có thể hiểu đơn giản hơn là
việc một chủ nợ thay vì thu hồi tiền nợ đã cho
công ty vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để
“mua” chính cổ phần của công ty (thường là
cổ phần phát hành thêm) với giá tương đương
hoặc theo thỏa thuận giữa hai bên. Khi đã là
25
Nguyên nhân gây ra . . .
cổ đông, chủ nợ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào công tác quản lý, hoạch định
phương hướng sản xuất kinh doanh, vực dậy
công ty, giúp công ty thoát khỏi tình trạng
kiệt quệ tài chính hiện tại. Về phần công ty,
việc chuyển nợ thành vốn góp ngay lập tức
giải phóng công ty khỏi gánh nặng nợ nần,
khả năng thanh toán được cải thiện. Như vậy,
phương án này giúp các công ty giải quyết
vấn đề thanh khoản và khoản nợ xấu của công
ty đối với các chủ nợ coi như được xóa, thay
vào đó sẽ là phần vốn điều lệ thuộc quyền sở
hữu của chủ nợ.
Kiệt quệ tài chính có thể được xem như là
một dấu hiệu cảnh báo sớm cho các hoạt động
kinh doanh yếu kém của công ty. Do đó việc
lập kế hoạch đối phó với kiệt quệ tài chính là
điều tối quan trọng đối với sự phát triển ổn
định của công ty. Dự báo chính xác khả năng
kiệt quệ tài chính không chỉ quan trọng đối
với các nhà quản trị mà còn quan trọng đối
với các chủ nợ và các cổ đông trong quá trình
ra quyết định của mình.
2. THỰC TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI
CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Tình trạng kiệt quệ tài chính của các công
ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt
Nam hậu quả là các công ty rơi vào tình trạng
cảnh báo, kiểm soát đặc biệt và cuối cùng là
hủy niêm yết bắt buộc.
Trong thời gian vừa qua, Sở Giao dịch
Chứng khoán Tp.HCM (HSX) và Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã thông
báo đưa một loạt cổ phiếu niêm yết vào
diện bị cảnh báo do hoạt động kinh doanh
của các công ty trên báo cáo tài chính năm
bị âm. Hệ quả là một số cổ phiếu đã bị tạm
ngừng giao dịch hoặc chỉ được giao dịch
ở đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa
mỗi phiên.
Theo qui chế niêm yết tại HSX, chứng
khoán niêm yết đưa vào diện bị kiểm soát khi
xảy ra một trong các trường hợp như nợ quá
hạn trên 1 năm hay tỷ lệ nợ quá hạn cao hơn
10% tổng vốn chủ sở hữu; không có đủ 100
cổ đông nắm giữ tối thiểu 20% cổ phiếu có
quyền biểu quyết của công ty; kết quả kinh
doanh phát sinh âm theo BCTC kiểm toán; tổ
chức niêm yết ngừng hoặc bị ngừng các hoạt
động sản xuất kinh doanh; cổ phiếu không có
giao dịch trong vòng 90 ngày hay không thực
hiện công bố thông tin theo yêu cầu của Uỷ
ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) hay
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK).
Còn tạm ngừng giao dịch với chứng khoán
niêm yết khi rơi vào các trường hợp như giá,
khối lượng giao dịch có biến động bất thường;
hoạt động kinh doanh chính thua lỗ 2 năm liên
tiếp theo báo cáo tài chính (BCTC) kiểm toán;
thực hiện tách, gộp cổ phiếu và tách, sáp nhập
doanh nghiệp; trường hợp cần thiết để bảo vệ
nhà đầu tư hay đảm bảo ổn định thị trường.
Những cổ phiếu tạm ngừng giao dịch sẽ bị Sở
yêu cầu giải trình cụ thể về lý do dẫn đến phải
tạm ngừng giao dịch. Căn cứ trên đó, SGDCK
sẽ xem xét cho phép giao dịch trở lại sau khi
đã khắc phục được nguyên nhân.
Đối với qui chế trên HNX, điều kiện
chứng khoán bị cảnh báo tương tự song điều
chỉnh các điều kiện như vốn điều lệ giảm
xuống dưới 10 tỷ đồng tại BCTC thời điểm
gần nhất; cổ phiếu không có giao dịch trong
vòng 60 ngày. Sau khi cổ phiếu bị cảnh báo
mà không khắc phục được sẽ đưa vào diện
bị kiểm soát. Và trong trường hợp HNX xét
thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư
thì chứng khoán bị kiểm soát sẽ bị hạn chế về
thời gian và/hoặc biên độ dao động giá.
26
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 1. Số lượng các công ty niêm yết rơi vào diện cảnh báo, kiểm soát và huỷ niêm yết trong
2 năm 2013 - 2014
Tình trạng Năm 2013 Năm 2014
SGDCK TP.HCM (HSX)
Cảnh báo 43 49
Kiểm soát 10 18
Kiểm soát đặc biệt 2
Tạm ngừng giao dịch 9 3
Huỷ niêm yết 11 5
SGDCK Hà Nội (HNX)
Cảnh báo 125 80
Kiểm soát 27 27
Kiểm soát đặc biệt 3
Tạm ngừng giao dịch 1
Huỷ niêm yết 29 25
Nguồn: tổng hợp của tác giả
nhưng cũng còn khá cao, với gần 200.000 tỉ
đồng... Thị trường vẫn còn gần 130 công ty
đang lỗ lũy kế từ các quý trước chuyển sang,
gần 350 công ty có số nợ ngắn hạn lớn hơn tài
sản ngắn hạn, rất dễ dẫn đến tình trạng mất
thanh khoản, thậm chí mất khả năng chi trả...
Một số công ty đang nợ nần và thua lỗ
nghiêm trọng là Tổng Công ty CP Xây lắp
Dầu khí Việt Nam (PVX) thua lỗ gần 437 tỉ
đồng trong 6 tháng, nâng mức lỗ lũy kế lên
1.830 tỉ đồng. Công ty này đang có các khoản
nợ phải trả lên đến 14.673 tỉ đồng (tính đến
ngày 30-6), trong đó nợ vay chiếm hơn 4.500
tỉ đồng. PVX có các khoản phải thu ngắn hạn
là 7.325 tỉ đồng, lượng hàng tồn kho 3.165
tỉ đồng, trong đó có nhiều khoản nợ khó đòi
nên công ty phải trích lập dự phòng trên 561
tỉ đồng.
Tương tự, Công ty CP Pomina (POM),
lợi nhuận 6 tháng đầu năm âm 176,5 tỉ đồng.
Với tổng tài sản 7.774 tỉ đồng nhưng công ty
có các khoản nợ phải trả lên đến gần 5.670 tỉ
đồng trong khi các khoản phải thu là 1.513 tỉ
đồng và lượng hàng tồn kho 2.135 tỉ đồng, chỉ
giảm nhẹ so với đầu năm.
3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC
TRẠNG TRÊN
3.1. Nguyên nhân nội sinh
Việc duy trì các khoản nợ, hàng tồn kho,
các khoản phải thu ở mức cao là một trong
những nguyên nhân chính đẩy công ty lâm
vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Trường hợp
của Công ty cổ phần Thủy sản Bình An trước
đây là một điển hình. Mặc dù có tài sản cố
định và hàng tồn kho đến hàng ngàn tỉ đồng
nhưng do không huy động được tiền để chi trả
cho người bán nguyên liệu đã dẫn đến việc
mất thanh khoản, ngân hàng xiết nợ buộc
công ty phải thanh lý tài sản, bán cổ phần cho
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)
để vượt qua khó khăn.
Trong số gần 700 công ty niêm yết trên 2
sàn chứng khoán, có tới 145 công ty thua lỗ
trong 6 tháng đầu năm 2013 với tổng giá trị
trên 3.300 tỉ đồng và 537 công ty hoạt động có
lãi với trên 39.684 tỉ đồng lợi nhuận sau thuế.
Tuy nhiên, con số nợ phải trả của các công
ty còn rất cao với tổng cộng trên 515.000 tỉ
đồng, trong đó nợ vay hiếm gần 278.000 tỉ
đồng. Lượng tồn kho đã giảm so với đầu năm
27
Nguyên nhân gây ra . . .
Công ty CP Đầu tư Phát triển đô thị và
KCN Sông Đà Sudico (SJS), từng nổi tiếng
với các khu đô thị Mỹ Đình - Mễ Trì và Nam
An Khánh ở Hà Nội, dù doanh thu tăng gấp
5 lần so với cùng kỳ (lên 144 tỉ đồng), lợi
nhuận sau thuế 25 tỉ đồng thay cho mức lỗ
đến 95 tỉ đồng cùng kỳ năm trước nhưng mới
chỉ đạt khoảng 12% kế hoạch. Trong khi đó,
tình hình tài chính của công ty vẫn còn rất
khó khăn với khoản lỗ lũy kế 363 tỉ đồng, nợ
phải trả trên 4.048 tỉ đồng, hàng tồn kho tiếp
tục tăng hơn 120 tỉ đồng so với đầu năm, lên
4.470 tỉ đồng...
3.2. Nguyên nhân ngoại sinh
Lạm phát
Trong năm 2011 đã có thời điểm Việt
Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức
lạm phát cao nhất thế giới, nói một cách khác
lạm phát là một trong những vấn đề nổi cộm
của nền kinh tế Việt Nam năm 2011. Đầu năm
2011, lạm phát Việt Nam khởi điểm 7% so với
cùng kỳ năm 2010 thì đúng 3 tháng sau đó,
cuối tháng 4/2011, Tổng cục Thống kê Việt
Nam chính thức thông báo lạm phát hay chỉ
số giá tiêu dùng (gọi tắt là CPI) nhảy vọt lên
mức gần 18% so với một năm trước đó. Với
mức tăng xấp xỉ gần 18%, tốc độ leo thang
của giá cả được cho là tăng nhanh nhất kể từ
hồi năm 2008. Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam
vẫn chưa dừng lại ở đó. Lạm phát tháng 7 lên
đến đỉnh điểm, tăng hơn 22% so với cùng kỳ
năm 2010 và tăng xấp xỉ 15% so với ngày đầu
tiên của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của Việt
Nam lúc này ở mức cao nhất Châu Á và đứng
thứ nhì thế giới, chỉ sau Venezuela. Lạm phát
bắt đầu có dấu hiệu chững lại và tốc độ tăng
chậm hơn trong quí 3 và đến những tháng
cuối cùng của năm, lạm phát được xem là bắt
đầu giảm từ từ, chẳng hạn ở mức gần 22%
trong tháng 10, xuống gần 20% trong tháng
11, và 18% trong tháng 12. Lạm phát đối với
các hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng nhiều
khi khó nhận thấy nhưng vô cùng nguy hiểm.
Lạm phát giảm lợi nhuận thu được trên thực
tế trong khi các nhà quản lý cứ ngỡ rằng công
ty mình đang phát triển. Lạm phát cũng khiến
mức đầu tư giảm và ảnh hưởng đến phân bổ
tài nguyên.
Giá trị thị trường suy giảm, cổ phần hầu
như không sinh lãi trong thời kì lạm phát.
Áp lực lãi vay ngân hàng
Lạm phát của Việt Nam năm 2011 hơn
18% nên lãi suất ngân hàng luôn được duy trì
ở mức cao (hơn 20%) trong thời gian này. Vì
vậy, công ty nào sử dụng càng nhiều nợ vay
hoặc không quản trị được tình hình tài chính
hiệu quả thì con đường thua lỗ hoặc thậm chí
phải phá sản là không tránh khỏi. Trong khi
lãi vay ngân hàng quá cao thì lợi nhuận cả
năm của nhiều công ty chỉ ở mức thấp. Lợi
nhuận làm ra không đủ trả lãi, trong khi tỷ lệ
nợ quá cao là rủi ro lớn trong hoạt động của
công ty. Ước tính tổng nợ trên tổng tài sản của
các công ty niêm yết (trừ khối tài chính ngân
hàng) trên sàn Hà Nội khoảng 70%; trên sàn
TP.HCM là 53,7%. Với mức lãi suất cho vay
của ngân hàng trên 20%/năm nên chi phí lãi
vay đã trở thành gánh nặng quá lớn đối với
nhiều công ty.
Biến động tỷ giá hối đoái
Tính từ đầu năm 2015 đến nay, đồng USD
đã tăng giá 10-15% so với các ngoại tệ mạnh
khác, trong đó, cá biệt đồng rup mất giá đến
gần 100%. Biến động lớn như vậy đã tác động
mạnh đến các công ty xuất khẩu vì thị trường,
đối tác đang có sự thay đổi lớn.
Công ty cổ phần Tập đoàn thủy sản Minh
Phú xuất khẩu vào 38 thị trường khác nhau
trên thế giới, trong nhiều hợp đồng, họ cũng
thanh toán bằng các ngoại tệ khác ngoài USD.
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Tuy nhiên, dù tính bằng đồng tiền nào chăng
nữa, công ty đều phải quy về đồng USD để
đàm phán giá. Trong khi đó, do tỷ giá VND
và USD đang ổn định, trong khi tỷ giá giữa
USD và các ngoại tệ mạnh khác biến động
lớn, nên VND đang lên giá so với các ngoại tệ
khác, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang
trở nên đắt đỏ hơn trên thị trường quốc tế. Sức
mua đang bị tác động đáng kể. Biến động quá
lớn của tỷ giá thời gian qua khiến nhiều đối
tác nhập hàng của công ty bị ảnh hưởng nặng
nề. Chẳng hạn, xuất hàng sang thị trường EU,
trường hợp thanh toán bằng USD, nếu nhà
nhập khẩu mua kỳ hạn USD để thanh toán, họ
ít bị ảnh hưởng.
Nhưng trường hợp nhà nhập khẩu không
sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mức
biến động 15% của tỷ giá USD/EUR sẽ khiến
họ thua lỗ nặng nề. Hủy hợp đồng, trì hoãn
thời gian nhận hàng, hoặc xin giảm số lượng
hàng nhập là những đề xuất đã buộc phải tính
tới. Đặc biệt, ở các thị trường quốc tế, người
ta cũng lấy đồng USD như một phương tiện
thanh toán và chỉ báo giá phổ biến nhất, do
đó giá trị các đồng tiền đều tham chiếu theo
USD. Đồng USD tăng giá khiến hàng hóa đắt
đỏ hơn, nhu cầu nhập khẩu của các bạn hàng
cũng giảm mạnh. Cá biệt, một số đối tác tại
Nga đã buộc phải hủy hợp đồng do đồng rúp
mất giá quá lớn.
Các công ty nhập khẩu cũng đau đầu
không kém, khó