Nguyên nhân gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính tại các công ty niêm yết và biện pháp tái cơ cấu

Cùng với sự trưởng thành của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, các công ty niêm yết đã phát triển góp phần to lớn làm nên diện mạo của TTCK ngày nay. Tuy nhiên, trải qua những bước thăng trầm của nền kinh tế trong và ngoài nước, các công ty niêm yết cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại trên bước đường phát triển của mình. Một số các công ty niêm yết đã lâm vào tình trạng khó khăn đến mức không còn khả năng thanh khoản, thua lỗ kéo dài, các khoản nợ vượt quá giá trị tổng tài sản của công ty, thường được hiểu như trạng thái kiệt quệ tài chính. Bài viết này nhằm nghiên cứu tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài chính; nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính và biện pháp tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ tài chính.

pdf11 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính tại các công ty niêm yết và biện pháp tái cơ cấu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật NGUYÊN NHÂN GÂY RA TÌNH TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ BIỆN PHÁP TÁI CƠ CẤU Bùi Kim Yến *, Trần Triệu Anh Khoa** TÓM TẮT Cùng với sự trưởng thành của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam, các công ty niêm yết đã phát triển góp phần to lớn làm nên diện mạo của TTCK ngày nay. Tuy nhiên, trải qua những bước thăng trầm của nền kinh tế trong và ngoài nước, các công ty niêm yết cũng đã gặp không ít khó khăn trở ngại trên bước đường phát triển của mình. Một số các công ty niêm yết đã lâm vào tình trạng khó khăn đến mức không còn khả năng thanh khoản, thua lỗ kéo dài, các khoản nợ vượt quá giá trị tổng tài sản của công ty, thường được hiểu như trạng thái kiệt quệ tài chính. Bài viết này nhằm nghiên cứu tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây về kiệt quệ tài chính; nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính và biện pháp tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ tài chính. Từ khoá: Kiệt quệ tài chính, tái cấu trú, nguyên nhân nội sinh, nguyên nhân ngoại sinh. CAUSES STATE CAUSE BANKRUPT THEM FINANCIALLY IN COMPANIES AND RESTRUCTURING MEASURES ABSTRACT Along with the maturity of the securities market (stock market) Vietnam, the company was developing membranes Although a major contributor to be the face of the stock market today. However, going through the ups and downs of the economy steps in and outside the country, the company has listing Yet no less difficult obstacle on the way of its development. A number of listed companies in the state however was difficulty level is no longer Able to liquidity, losses sustained, the debt exceeded the total asset value of the company, often be understood as the state exhausted User. This article aims to study the theory and other review previous studies on financial exhaustion; cause cause, bankrupt them financially and measures to restructure the company after the financial exhaustion. Keywords: bankrupt them financially, permanent restructuring, endogenous causes, exogenous causes. * PGS.TS. Giảng viên trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh ** Chuyên viên Liên Việt Postbank 23 Nguyên nhân gây ra . . . 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH 1.1. Tổng quan lý thuyết 1.1.1. Khái niệm về kiệt quệ tài chính Gestel cùng với các đồng sự (2006) mô tả kiệt quệ tài chính là kết quả của sự thua lỗ kéo dài mà nguyên nhân là do sự gia tăng không cân xứng về công nợ kèm theo sự sụt giảm trong giá trị tài sản. Gordon (1971) nhấn mạnh rằng kiệt quệ tài chính chỉ là một giai đoạn trong một quá trình mà tiếp theo sau đó là sự thất bại và tái cấu trúc. Công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính khi mà khả năng tạo ra lợi nhuận sụt giảm và giá trị của các khoản nợ vượt quá giá trị tổng tài sản của công ty. Trong bài nghiên cứu của Gilbert và đồng sự (1990), công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính sẽ có sự lựa chọn để tái cơ cấu nợ nhằm đạt được một mức độ thích hợp để duy trì khả năng thanh toán hay nộp đơn phá sản. 1.1.2. Nguyên nhân gây ra kiệt quệ tài chính Kiệt quệ tài chính là một quá trình chuyển đổi linh hoạt và phức tạp các yếu tố khác nhau gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty. Các yếu tố này được phân thành hai loại: các yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh. Các yếu tố nội sinh đóng vai trò là nguyên nhân gây nên tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty bao gồm: kinh nghiệm quản lý yếu kém dẫn đến các quyết định tài chính sai lầm, chậm đổi mới khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp và hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài, thiếu vốn hoạt động dẫn đến công ty sẽ bỏ qua những cơ hội kinh doanh tốt, thanh khoản kém và làm suy giảm uy tín cùa công ty trên thị trường. Các yếu tố ngoại sinh đa phần đến từ các tác nhân của chính sách kinh tế vĩ mô và thị trường bao gồm: suy thoái kinh tế, lạm phát biến động bất lợi tỷ giá hối đoái, lãi suất cho vay tăng cao, thay đổi bất lợi trong các chính sách của chính phủ. Việc xác định các nguyên nhân gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính thường được dựa vào các nghiên cứu thực nghiệm. Karels và Prakash (1987), phân loại các yếu tố gây ra kiệt quệ tài chính thành hai nhóm: nhóm các yếu tố rủi ro nội bộ và nhóm các yếu tố bên ngoài. Nhóm các yếu tố rủi ro nội bộ thông thường liên quan đến các kỹ năng quản lý công ty, các quyết định tài chính mà qua đó gây tác động đến tình trạng của công ty. Nhóm các yếu tố bên ngoài tác động đến công ty thông thường là sự biến động trong chính sách kinh tế, bất ổn của thị trường lao động hay thảm họa tự nhiên. Nghiên cứu của Bibeault (1983) chỉ ra rằng có 5 yếu tố bên ngoài gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính của công ty là: biến động của nền kinh tế, biến động môi trường cạnh tranh, thay đổi các yếu tố xã hội và thay đổi khoa học công nghệ. Kết quả nghiên cứu của ông cho thấy 41% công ty phá sản là do sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô, 31% là do môi trường cạnh tranh thay đổi, 13% là do những thay đổi bất lợi trong chính sách của chính phủ và 15% là chịu sự tác động của thay đổi xã hội và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, 80% các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính là do sự tác động của các yếu tố quản lý, cụ thể là thiếu năng lực quản lý. Theo nghiên cứu của Whitaker (1999), các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính do yếu tố nội bộ (yếu kém trong quản lý) chiếm 76,8%, các công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính do chịu tác động của cả hai yếu tố bên trong 24 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật và bên ngoài là 37,5%. Cuối cùng chỉ có 9,4% trong các công ty là do ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài. Nghiên cứu của Andrade và Kaplan (1998) cho thấy tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao là nguyên nhân chính đẩy công ty rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính bởi vì đây là lý do gây thiếu hụt tiền mặt trong công ty. 1.1.3. Tái cấu trúc công ty sau kiệt quệ tài chính Khi rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính, công ty sẽ phải đưa ra các quyết định liên quan đến hai vấn đề chính, đó là: tái cơ cấu tài sản và tái cơ cấu tài chính. Các biện pháp tái cơ cấu tài sản bao gồm: y Bán tài sản, đây được xem là giải pháp giảm thiểu khó khăn tài chính tạm thời. Nguồn tiền từ việc bán tháo tài sản có thể được sử dụng để giảm dư nợ hay thực hiện các cơ hội đầu tư mới. Việc bán tài sản của nhiều công ty được coi là động lực chính để cân đối tài chính. Vì ở thời điểm hiện tại, tiền mặt vẫn quan trọng hơn lợi nhuận. y Sát nhập với công ty khác là hình thức kết hợp mà hai công ty thường có cùng quy mô, thống nhất gộp chung cổ phần. Công ty bị sáp nhập chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập để trở thành một công ty mới. Biện pháp này đưa lại lợi ích to lớn cho tất cả các bên tham gia. Nó không chỉ giúp các công ty lớn giảm chi phí đầu tư, giúp các công ty yếu kém thoát khỏi nguy cơ phá sản mà còn giúp công ty mới tạo ra sau có đầy đủ các tiềm lực và thuận lợi để phát triển lớn mạnh và đạt được lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Đây là biện pháp hiệu quả đối với hầu hết các công ty kiệt quệ tài chính. y Các biện pháp tái cơ cấu tài chính bao gồm: y Tăng vốn cổ phần: hay nói cách khác là sử dụng biện pháp tài trợ bằng vốn. Một công ty kiệt quệ tài chính thường thiếu thanh khoản và cần được tài trợ theo tiến độ trong quá trình giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính. Do đó, khả năng thu hút nguồn vốn mới của công ty là rất quan trọng cho sự sống còn của công ty. Tuy nhiên, trong trường hợp kiệt quệ tài chính công ty gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn mới thông biện pháp tài trợ bằng nợ. Sử dụng biện pháp tài trợ bằng vốn có thể xem như là một cứu cánh của công ty trong tình hình hiện tại. y Cơ cấu lại nợ: là một quá trình cho phép con nợ là công ty kiệt quệ tài chính đàm phán với các chủ nợ của mình để sửa đổi các điều khoản của hợp đồng nợ chưa thanh toán nhằm giảm nghĩa vụ nợ của công ty và cải thiện tình hình tài chính tổng thể. Việc cơ cấu lại nợ có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm việc thay đổi kỳ hạn trả nợ, thời gian trả nợ, số lần trả nợ, số tiền trả nợ từng lần Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với thực tế này. Các chủ nợ hỗ trợ cơ cấu lại các khoản nợ của công ty, qua đó giúp công ty trong việc đối đầu và vượt qua những khó khăn ngắn hạn, mà các chủ nợ này tin rằng, những khó khăn đó sẽ được công ty xử lý, khắc phục một cách hiệu quả cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong tương lai; nhờ đó tối đa hóa khả năng thu hồi nợ của chủ nợ. y Vốn hóa nợ: là một quá trình chuyển nợ thành vốn góp, có thể hiểu đơn giản hơn là việc một chủ nợ thay vì thu hồi tiền nợ đã cho công ty vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để “mua” chính cổ phần của công ty (thường là cổ phần phát hành thêm) với giá tương đương hoặc theo thỏa thuận giữa hai bên. Khi đã là 25 Nguyên nhân gây ra . . . cổ đông, chủ nợ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào công tác quản lý, hoạch định phương hướng sản xuất kinh doanh, vực dậy công ty, giúp công ty thoát khỏi tình trạng kiệt quệ tài chính hiện tại. Về phần công ty, việc chuyển nợ thành vốn góp ngay lập tức giải phóng công ty khỏi gánh nặng nợ nần, khả năng thanh toán được cải thiện. Như vậy, phương án này giúp các công ty giải quyết vấn đề thanh khoản và khoản nợ xấu của công ty đối với các chủ nợ coi như được xóa, thay vào đó sẽ là phần vốn điều lệ thuộc quyền sở hữu của chủ nợ. Kiệt quệ tài chính có thể được xem như là một dấu hiệu cảnh báo sớm cho các hoạt động kinh doanh yếu kém của công ty. Do đó việc lập kế hoạch đối phó với kiệt quệ tài chính là điều tối quan trọng đối với sự phát triển ổn định của công ty. Dự báo chính xác khả năng kiệt quệ tài chính không chỉ quan trọng đối với các nhà quản trị mà còn quan trọng đối với các chủ nợ và các cổ đông trong quá trình ra quyết định của mình. 2. THỰC TRẠNG KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Tình trạng kiệt quệ tài chính của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam hậu quả là các công ty rơi vào tình trạng cảnh báo, kiểm soát đặc biệt và cuối cùng là hủy niêm yết bắt buộc. Trong thời gian vừa qua, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HSX) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã thông báo đưa một loạt cổ phiếu niêm yết vào diện bị cảnh báo do hoạt động kinh doanh của các công ty trên báo cáo tài chính năm bị âm. Hệ quả là một số cổ phiếu đã bị tạm ngừng giao dịch hoặc chỉ được giao dịch ở đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa mỗi phiên. Theo qui chế niêm yết tại HSX, chứng khoán niêm yết đưa vào diện bị kiểm soát khi xảy ra một trong các trường hợp như nợ quá hạn trên 1 năm hay tỷ lệ nợ quá hạn cao hơn 10% tổng vốn chủ sở hữu; không có đủ 100 cổ đông nắm giữ tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty; kết quả kinh doanh phát sinh âm theo BCTC kiểm toán; tổ chức niêm yết ngừng hoặc bị ngừng các hoạt động sản xuất kinh doanh; cổ phiếu không có giao dịch trong vòng 90 ngày hay không thực hiện công bố thông tin theo yêu cầu của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) hay Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Còn tạm ngừng giao dịch với chứng khoán niêm yết khi rơi vào các trường hợp như giá, khối lượng giao dịch có biến động bất thường; hoạt động kinh doanh chính thua lỗ 2 năm liên tiếp theo báo cáo tài chính (BCTC) kiểm toán; thực hiện tách, gộp cổ phiếu và tách, sáp nhập doanh nghiệp; trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư hay đảm bảo ổn định thị trường. Những cổ phiếu tạm ngừng giao dịch sẽ bị Sở yêu cầu giải trình cụ thể về lý do dẫn đến phải tạm ngừng giao dịch. Căn cứ trên đó, SGDCK sẽ xem xét cho phép giao dịch trở lại sau khi đã khắc phục được nguyên nhân. Đối với qui chế trên HNX, điều kiện chứng khoán bị cảnh báo tương tự song điều chỉnh các điều kiện như vốn điều lệ giảm xuống dưới 10 tỷ đồng tại BCTC thời điểm gần nhất; cổ phiếu không có giao dịch trong vòng 60 ngày. Sau khi cổ phiếu bị cảnh báo mà không khắc phục được sẽ đưa vào diện bị kiểm soát. Và trong trường hợp HNX xét thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư thì chứng khoán bị kiểm soát sẽ bị hạn chế về thời gian và/hoặc biên độ dao động giá. 26 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Bảng 1. Số lượng các công ty niêm yết rơi vào diện cảnh báo, kiểm soát và huỷ niêm yết trong 2 năm 2013 - 2014 Tình trạng Năm 2013 Năm 2014 SGDCK TP.HCM (HSX) Cảnh báo 43 49 Kiểm soát 10 18 Kiểm soát đặc biệt 2 Tạm ngừng giao dịch 9 3 Huỷ niêm yết 11 5 SGDCK Hà Nội (HNX) Cảnh báo 125 80 Kiểm soát 27 27 Kiểm soát đặc biệt 3 Tạm ngừng giao dịch 1 Huỷ niêm yết 29 25 Nguồn: tổng hợp của tác giả nhưng cũng còn khá cao, với gần 200.000 tỉ đồng... Thị trường vẫn còn gần 130 công ty đang lỗ lũy kế từ các quý trước chuyển sang, gần 350 công ty có số nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản ngắn hạn, rất dễ dẫn đến tình trạng mất thanh khoản, thậm chí mất khả năng chi trả... Một số công ty đang nợ nần và thua lỗ nghiêm trọng là Tổng Công ty CP Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVX) thua lỗ gần 437 tỉ đồng trong 6 tháng, nâng mức lỗ lũy kế lên 1.830 tỉ đồng. Công ty này đang có các khoản nợ phải trả lên đến 14.673 tỉ đồng (tính đến ngày 30-6), trong đó nợ vay chiếm hơn 4.500 tỉ đồng. PVX có các khoản phải thu ngắn hạn là 7.325 tỉ đồng, lượng hàng tồn kho 3.165 tỉ đồng, trong đó có nhiều khoản nợ khó đòi nên công ty phải trích lập dự phòng trên 561 tỉ đồng. Tương tự, Công ty CP Pomina (POM), lợi nhuận 6 tháng đầu năm âm 176,5 tỉ đồng. Với tổng tài sản 7.774 tỉ đồng nhưng công ty có các khoản nợ phải trả lên đến gần 5.670 tỉ đồng trong khi các khoản phải thu là 1.513 tỉ đồng và lượng hàng tồn kho 2.135 tỉ đồng, chỉ giảm nhẹ so với đầu năm. 3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN 3.1. Nguyên nhân nội sinh Việc duy trì các khoản nợ, hàng tồn kho, các khoản phải thu ở mức cao là một trong những nguyên nhân chính đẩy công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Trường hợp của Công ty cổ phần Thủy sản Bình An trước đây là một điển hình. Mặc dù có tài sản cố định và hàng tồn kho đến hàng ngàn tỉ đồng nhưng do không huy động được tiền để chi trả cho người bán nguyên liệu đã dẫn đến việc mất thanh khoản, ngân hàng xiết nợ buộc công ty phải thanh lý tài sản, bán cổ phần cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) để vượt qua khó khăn. Trong số gần 700 công ty niêm yết trên 2 sàn chứng khoán, có tới 145 công ty thua lỗ trong 6 tháng đầu năm 2013 với tổng giá trị trên 3.300 tỉ đồng và 537 công ty hoạt động có lãi với trên 39.684 tỉ đồng lợi nhuận sau thuế. Tuy nhiên, con số nợ phải trả của các công ty còn rất cao với tổng cộng trên 515.000 tỉ đồng, trong đó nợ vay hiếm gần 278.000 tỉ đồng. Lượng tồn kho đã giảm so với đầu năm 27 Nguyên nhân gây ra . . . Công ty CP Đầu tư Phát triển đô thị và KCN Sông Đà Sudico (SJS), từng nổi tiếng với các khu đô thị Mỹ Đình - Mễ Trì và Nam An Khánh ở Hà Nội, dù doanh thu tăng gấp 5 lần so với cùng kỳ (lên 144 tỉ đồng), lợi nhuận sau thuế 25 tỉ đồng thay cho mức lỗ đến 95 tỉ đồng cùng kỳ năm trước nhưng mới chỉ đạt khoảng 12% kế hoạch. Trong khi đó, tình hình tài chính của công ty vẫn còn rất khó khăn với khoản lỗ lũy kế 363 tỉ đồng, nợ phải trả trên 4.048 tỉ đồng, hàng tồn kho tiếp tục tăng hơn 120 tỉ đồng so với đầu năm, lên 4.470 tỉ đồng... 3.2. Nguyên nhân ngoại sinh  Lạm phát Trong năm 2011 đã có thời điểm Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức lạm phát cao nhất thế giới, nói một cách khác lạm phát là một trong những vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam năm 2011. Đầu năm 2011, lạm phát Việt Nam khởi điểm 7% so với cùng kỳ năm 2010 thì đúng 3 tháng sau đó, cuối tháng 4/2011, Tổng cục Thống kê Việt Nam chính thức thông báo lạm phát hay chỉ số giá tiêu dùng (gọi tắt là CPI) nhảy vọt lên mức gần 18% so với một năm trước đó. Với mức tăng xấp xỉ gần 18%, tốc độ leo thang của giá cả được cho là tăng nhanh nhất kể từ hồi năm 2008. Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam vẫn chưa dừng lại ở đó. Lạm phát tháng 7 lên đến đỉnh điểm, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng xấp xỉ 15% so với ngày đầu tiên của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của Việt Nam lúc này ở mức cao nhất Châu Á và đứng thứ nhì thế giới, chỉ sau Venezuela. Lạm phát bắt đầu có dấu hiệu chững lại và tốc độ tăng chậm hơn trong quí 3 và đến những tháng cuối cùng của năm, lạm phát được xem là bắt đầu giảm từ từ, chẳng hạn ở mức gần 22% trong tháng 10, xuống gần 20% trong tháng 11, và 18% trong tháng 12. Lạm phát đối với các hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng nhiều khi khó nhận thấy nhưng vô cùng nguy hiểm. Lạm phát giảm lợi nhuận thu được trên thực tế trong khi các nhà quản lý cứ ngỡ rằng công ty mình đang phát triển. Lạm phát cũng khiến mức đầu tư giảm và ảnh hưởng đến phân bổ tài nguyên. Giá trị thị trường suy giảm, cổ phần hầu như không sinh lãi trong thời kì lạm phát.  Áp lực lãi vay ngân hàng Lạm phát của Việt Nam năm 2011 hơn 18% nên lãi suất ngân hàng luôn được duy trì ở mức cao (hơn 20%) trong thời gian này. Vì vậy, công ty nào sử dụng càng nhiều nợ vay hoặc không quản trị được tình hình tài chính hiệu quả thì con đường thua lỗ hoặc thậm chí phải phá sản là không tránh khỏi. Trong khi lãi vay ngân hàng quá cao thì lợi nhuận cả năm của nhiều công ty chỉ ở mức thấp. Lợi nhuận làm ra không đủ trả lãi, trong khi tỷ lệ nợ quá cao là rủi ro lớn trong hoạt động của công ty. Ước tính tổng nợ trên tổng tài sản của các công ty niêm yết (trừ khối tài chính ngân hàng) trên sàn Hà Nội khoảng 70%; trên sàn TP.HCM là 53,7%. Với mức lãi suất cho vay của ngân hàng trên 20%/năm nên chi phí lãi vay đã trở thành gánh nặng quá lớn đối với nhiều công ty.  Biến động tỷ giá hối đoái Tính từ đầu năm 2015 đến nay, đồng USD đã tăng giá 10-15% so với các ngoại tệ mạnh khác, trong đó, cá biệt đồng rup mất giá đến gần 100%. Biến động lớn như vậy đã tác động mạnh đến các công ty xuất khẩu vì thị trường, đối tác đang có sự thay đổi lớn. Công ty cổ phần Tập đoàn thủy sản Minh Phú xuất khẩu vào 38 thị trường khác nhau trên thế giới, trong nhiều hợp đồng, họ cũng thanh toán bằng các ngoại tệ khác ngoài USD. 28 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Tuy nhiên, dù tính bằng đồng tiền nào chăng nữa, công ty đều phải quy về đồng USD để đàm phán giá. Trong khi đó, do tỷ giá VND và USD đang ổn định, trong khi tỷ giá giữa USD và các ngoại tệ mạnh khác biến động lớn, nên VND đang lên giá so với các ngoại tệ khác, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang trở nên đắt đỏ hơn trên thị trường quốc tế. Sức mua đang bị tác động đáng kể. Biến động quá lớn của tỷ giá thời gian qua khiến nhiều đối tác nhập hàng của công ty bị ảnh hưởng nặng nề. Chẳng hạn, xuất hàng sang thị trường EU, trường hợp thanh toán bằng USD, nếu nhà nhập khẩu mua kỳ hạn USD để thanh toán, họ ít bị ảnh hưởng. Nhưng trường hợp nhà nhập khẩu không sử dụng công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mức biến động 15% của tỷ giá USD/EUR sẽ khiến họ thua lỗ nặng nề. Hủy hợp đồng, trì hoãn thời gian nhận hàng, hoặc xin giảm số lượng hàng nhập là những đề xuất đã buộc phải tính tới. Đặc biệt, ở các thị trường quốc tế, người ta cũng lấy đồng USD như một phương tiện thanh toán và chỉ báo giá phổ biến nhất, do đó giá trị các đồng tiền đều tham chiếu theo USD. Đồng USD tăng giá khiến hàng hóa đắt đỏ hơn, nhu cầu nhập khẩu của các bạn hàng cũng giảm mạnh. Cá biệt, một số đối tác tại Nga đã buộc phải hủy hợp đồng do đồng rúp mất giá quá lớn. Các công ty nhập khẩu cũng đau đầu không kém, khó
Tài liệu liên quan