Đặc vấn đề: U mô bào xơ đa hình ác tính là u ác tính của mô mềm hầu hết thấy ở người trên 40 tuổi. U hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên. Vị trí u thường ở chi dưới, sau đó là chi trên, sau phúc mạc. Chỉ có 3% U mô bào xơ ác tính xảy ra ở đầu và cổ. Chúng tôi thông báo 01 trường hợp bệnh nhân nam 14 tuổi được chẩn đoán U mô bào xơ đa hình ác tính vùng mặt tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2012. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình thái học của U mô bào xơ đa hình ác tính tại vùng mặt. Đối tượng và phương pháp: Mô tả 01 ca bệnh. Kết quả: Khối u lớn, lan tỏa gây biến dạng toàn bộ mặt. Sinh thiết u thấy các tế bào hình thoi dạng nguyên bào xơ, mô bào và các tế bào đa hình thái. Chẩn đoán phân biệt với sarcôm xơ, sarcôm nguyên bào xơ ‐ cơ trơn, sarcôm cơ vân. Hóa mô miễn dịch (HMMD): Vimentin(+), SMA(+), CD68(+) và Desmin(‐). Kết luận: U mô bào xơ ác tính týp đa hình. Kết quả nghiên cứu đã được so sánh và tham khảo y văn
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp u mô bào xơ đa hình ác tính gây biến dạng mặt tại Bệnh viện nhi Trung Ương năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 221
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP U MÔ BÀO XƠ ĐA HÌNH ÁC TÍNH
GÂY BIẾN DẠNG MẶT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2012
Phó Hồng Điệp*, Hoàng Ngọc Thạch*, Ivo Leuschner**
TÓM TẮT
Đặc vấn đề: U mô bào xơ đa hình ác tính là u ác tính của mô mềm hầu hết thấy ở người trên 40 tuổi. U
hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên. Vị trí u thường ở chi dưới, sau đó là chi trên, sau phúc mạc. Chỉ có 3% U
mô bào xơ ác tính xảy ra ở đầu và cổ. Chúng tôi thông báo 01 trường hợp bệnh nhân nam 14 tuổi được chẩn
đoán U mô bào xơ đa hình ác tính vùng mặt tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2012.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình thái học của U mô bào xơ đa hình ác tính tại vùng mặt.
Đối tượng và phương pháp: Mô tả 01 ca bệnh.
Kết quả: Khối u lớn, lan tỏa gây biến dạng toàn bộ mặt. Sinh thiết u thấy các tế bào hình thoi dạng nguyên
bào xơ, mô bào và các tế bào đa hình thái. Chẩn đoán phân biệt với sarcôm xơ, sarcôm nguyên bào xơ ‐ cơ trơn,
sarcôm cơ vân... Hóa mô miễn dịch (HMMD): Vimentin(+), SMA(+), CD68(+) và Desmin(‐).
Kết luận: U mô bào xơ ác tính týp đa hình. Kết quả nghiên cứu đã được so sánh và tham khảo y văn.
Từ khóa: U mô bào xơ đa hình ác tính, u mô mềm
ABSTRACT
PLEOMORPHIC MALIGNANT FIBROUS HISTIOCYTOMA
OF THE FACE: A CASE REPORT
Pho Hong Diep, Hoang Ngoc Thach, Ivo Leuschner* Y Hoc TP. Ho Chi Minh *
Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 221 ‐ 225
Background: Pleomorphic malignant fibrous histiocytoma (Pleomorphic‐MFH) is a malignant neoplasm of
soft tissue most common presented in patients over age 40. Rare examples may be encountered in children,
adolescents and young adults. It affects the lower extremities, the upper extremities and the retroperitoneum in
order of decreasing incidence, and only 3% of MFH occur in the head and neck. We report a 14 year‐ old boy with
pleomorphic‐MFH in the face, diagnosed at National Hospital of Pediatrics in 2012.
Aim: Describe the morphology of the pleomorphic‐MFH in the face.
Subject and method: Case study.
Results: A big mass deformed face. The incisional biopsy specimens revealed proliferation of malignant
spindle cells as fibroblastic and histiocytic cells, with pleomorphic cells. Differential diagnoses included
fibrosarcoma, myofibroblastic sarcoma, rhabdomyosarcoma (RMS) Immunohistochemistry: Vimentin (+),
SMA (+), CD68 (+) and Desmin (‐).
Conclusion: The histological diagnosis was pleomorphic malignant fibrous histiocytoma which can affected
in adolescent. An early diagnosis may be useful for treatment.
Key words: pleomorphic malignant fibrous histiocytoma, soft tissue tumours
*Khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Nhi Trung ương.
** Khoa Giải phẫu bệnh Nhi, Bệnh viện Đại học Schleswig‐Holstein, Campus Kiel, Đức.
Tác giả liên lạc: BS. Phó Hồng Điệp ĐT: 090.479.1482. Email: hd2121182@yahoo.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 222
ĐẶT VẤN ĐỀ
U mô bào xơ đa hình ác tính (Pleomorphic
malignant fibrous histiocytoma) là u ác tính của
mô mềm được phát hiện đầu tiên năm 1963 bởi
Ozzello và cộng sự(2). U có tên gọi khác là
Sarcôm đa hình không biệt hóa độ ác tính cao
(Undifferentiated high‐grade pleomorphic
sarcôm)(1). Đây là một u mô liên kết ác tính đa
hình (pleomorphic sarcôm) đặc trưng bởi sự biệt
hóa của các nguyên bào sợi và mô bào với tỉ lệ
thay đổi, sắp xếp dạng xoáy lốc “storiform”.
Hầu hết các trường hợp U mô bào xơ ác tính
xảy ra ở người lớn trên 40 tuổi và tỷ lệ mắc
nhiều nhất ở độ tuổi 60‐70. Hiếm thấy có trường
hợp u xuất hiện ở trẻ em và thanh thiếu niên. Tỷ
lệ nam: nữ khoảng 1,2:1(1)
U thường xuất hiện ở chi dưới, tiếp theo là
chi trên và vùng sau phúc mạc(1,2). Chỉ có 3% các
trường hợp U mô bào xơ ác tính xảy ra ở vùng
đầu‐ cổ và trong số đó 30% ở vùng mũi xoang(4).
Khối u lớn, ít đau, các triệu chứng chủ yếu liên
quan đến vị trí khối u và ảnh hưởng tới các vùng
lân cận(2). Di căn xa đến phổi hay gặp nhất, tiếp
đến là xương và gan(1,2,4).
Với những đặc điểm trên, chúng tôi nhận
thấy U mô bào xơ ác tính tại vùng mặt ở lứa tuổi
thiếu niên là khá hiếm gặp. Vì vậy, chúng tôi
thông báo một trường hợp với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm hình thái học của U mô bào
xơ đa hình ác tính vùng mặt
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng
Nam 14 tuổi, vào viện ngày 22/10/2012 tại
Bệnh viện Nhi Trung ương. Chẩn đoán GPB: U
mô bào xơ ác tính típ đa hình.
Phương pháp
Mô tả 1 ca bệnh.
KẾT QUẢ
Báo cáo ca bệnh.
Lâm sàng
Nam thiếu niên 14 tuổi vào viện với khối u
rất lớn vùng mặt.
Bệnh diễn biến gần 4 năm nay, khởi đầu
thường xuyên nghẹt mũi 2 bên (phải thở đường
miệng), gần đây có chảy máu mũi. Đã khám ở
nhiều nơi không đỡ, u lớn dần Æ vào BV Nhi
TW.
Khối u khoảng 10x10 (cm) gây biến dạng
hoàn toàn vùng trán‐ mũi‐ mặt và đẩy lồi 2 mắt
ra phía trước. Thị lực và thính lực bên T giảm
nhẹ.
Hình 1: BN nam 14 tuổi và khối u lớn gây biến dạng
mặt.
Chẩn đoán hình ảnh
Chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não
‐ Khối u lớn 9x14x14,5 cm chiếm toàn bộ
vùng sàng mũi và các xoang nền sọ. Tổ chức u
đặc, không đồng nhất, trung tâm có ổ hoại tử
lớn 6x7x9 cm.
‐ U ranh giới rõ, lan lên trên tiến sát vùng
màng não và trán 2 bên, lan ra sau xâm lấn vùng
yên và dốc nền, lan xuống dưới ép sát toàn bộ
khẩu cái gây hẹp khoang họng. Do khối choán
chỗ nên không thấy cấu trúc bình thường của
ngách mũi, các cuốn mũi và vùng hầu mũi.
Không thấy cấu trúc các xoang sàng, xoang hàm
và xoang bướm. Hệ thống não thất, bể não hình
thái bình thường
Giải phẫu bệnh
Sinh thiết 3 mảnh nhỏ 0,4cm từ vùng xương
hàm trên T.
Mô học thấy hình ảnh nổi bật của một số tế
bào đa hình trên nền các tế bào hình thoi xếp
thành bó dải và xoáy lốc. Các tế bào có chất
nhiễm sắc thô, kiềm tính. Có thể thấy một vài tế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 223
bào khổng lồ, nhân chia và tăng sinh mạch.
Kèm theo còn có hình ảnh các mô bào, bạch
cầu ái toan. Hoại tử rải rác.
Hình 2: Hình ảnh các lát cắt ngang (A,B) và dọc (C) qua vùng mặt
Hình 3 (A) Các tế bào hình thoi sắp xếp dạng xoáy lốc “storiform”. HE X 100. (B,C) Đa dạng các tế bào gồm tế
bào hình thoi, tế bào đa hình (mũi tên), mô bào, BC ái toan. HE X 200. (D)Tế bào đa hình thái. HE X 400.
* Nhuộm hóa mô miễn dịch: Vimentin(+), SMA(+), CD68(+), Desmin(‐)
A
B
D
A B
Vimenti
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 224
A B
C D
Hình 4(A) Vimentin(+), (B) SMA(+), (C) CD68(+), (D) Desmin(‐). HMMD X 200
Kết luận GPB: U mô bào xơ ác tính týp đa
hình (Pleomorphic‐MFH).
BÀN LUẬN
Như vậy, mặc dù hầu hết U mô bào xơ đa
hình ác tính được thấy ở người lớn trên 40 tuổi
(cao nhất ở độ tuổi 60‐ 70), vẫn có trường hợp
u xuất hiện ở độ tuổi thiếu niên. Thêm vào đó,
khối u phát triển tại vùng mặt cũng là nơi rất ít
gặp loại u này. U phát triển ngay phía dưới sọ
não song lại có ranh giới rõ và chỉ mang tính
chất đè đẩy dần dần. Vì vậy, ở bệnh nhân này
khối u to nhưng chưa thấy có dấu hiệu của tổn
thương não.
Bệnh nhân được lấy sinh thiết tại vùng u để
chẩn đoán mô bệnh học mà không thể lấy toàn
bộ khối u (do u rất lớn tại vùng mặt). Hình ảnh
sinh thiết nhuộm HE cho thấy các tế bào đa hình
thái trên nền tế bào hình thoi, mô bào phong
phú. Một số hình ảnh của u có thể gặp trong các
sarcôm có tế bào đa hình khác như sarcôm xơ,
sarcôm nguyên bào xơ cơ, sarcôm cơ vân Vì
thế chúng tôi đã kết hợp với nhuộm HMMD thì
thấy các tế bào phần lớn có nguồn gốc mô liên
kết (Vimentin+), một số tế bào bản chất là mô
bào (CD68+). SMA mặc dù dương tính có thể
gặp trong u nguyên bào xơ cơ nhưng hình ảnh
tế bào không đặc trưng. Desmin (‐) giúp loại trừ
chẩn đoán sarcôm cơ vân
Cuối cùng, chúng tôi nhận thấy chẩn đoán U
mô bào xơ ác tính típ đa hình là một chẩn đoán
phù hợp nhất mặc dù thời gian bệnh diễn biến
gần 4 năm là yếu tố chưa phù hợp với loại u
này. Có thể giải thích do quá trình phát sinh u từ
một loại u mô mềm độ thấp chưa được điều trị
triệt để nay biến chuyển ác tính.
Đối với u mô bào xơ ác tính, phương pháp
điều trị chủ yếu là cắt bỏ khối u nguyên phát với
diện cắt rộng(1,2,4). Vì vậy, phát hiện khối u càng
sớm, việc phẫu thuật càng dễ thực hiện mà ít
ảnh hưởng các vùng xung quanh. Tuy nhiên
trong trường hợp này, việc phẫu thuật lấy toàn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 225
bộ u lớn vùng mặt là không thể thực hiện. Do
đó, bệnh nhân chỉ được điều trị hóa chất theo
phác đồ điều trị sarcôm mô mềm (non‐ RMS)
nhóm nguy cơ cao. Tiên lượng đối với bệnh
nhân rất xấu vì khối u quá lớn lại liên quan chặt
chẽ với các cơ quan trọng yếu (não, mắt, đường
hô hấp, tiêu hóa). Bên cạnh đó, theo y văn thời
gian sống thêm 5 năm của U mô bào xơ đa hình
ác tính chỉ khoảng 50‐60% là một yếu tố tiên
lượng không tốt cho bệnh nhân này(1). Hiện tại
bệnh nhân đã xin về và từ chối điều trị sau 6
tuần điều trị hóa chất.
KẾT LUẬN
U mô bào xơ đa hình ác tính có thể xuất hiện
ở tuổi thiếu niên là đối tượng rất ít gặp loại u
này. Vùng mặt là vị trí hiếm thấy u nhưng nếu
có sẽ có thể gây biến dạng nặng nề và rất khó
điều trị.
Phát hiện sớm là cần thiết nhằm loại bỏ toàn
bộ u mà ít ảnh hưởng đến chức năng và chất
lượng sống, đồng thời có thể ngăn được nguy cơ
tiến triển ác tính (nếu u xuất phát từ một u lành
tính của mô mềm).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fletcher CDM, Berg EV, Molenaar WM (2002). Pleomorphic
malignant fibrous histiocytoma/Undifferentiated high grade
sarcoma. In: Fletcher CDM, Unni KK, Mertens F. World
Health Organization Classification of Tumours. Pathology
and Genetics of Tumours of Soft Tissue and Bone, Chapter III.
International Agency for Research on Cancer (IARC), Lyon.
Pp. 120‐122.
2. Hardison SA, Davis PL, Browne JD (2013). Malignant fibrous
histiocytoma of the head and neck: a case series. The
American Journal of Otolaryngology‐ Head and Neck
Medicine and Surgery, Volume 34, Issue 1: 10‐15.
3. Legallo RD, Wick MR (2010). Malignant fibrous
histiocytoma. In: Gattuso, Reddy (eds). Differential Diagnosis
in Surgical Pathology, Chapter 17. Saunders Elsevier. Pp. 910‐
911.
4. Thompson LDR, Fanburg‐Smith JC (2005). Malignant soft
tissue tumours. In: Barnes L, Eveson JW (eds). World Health
Organization Classification of Tumours. Pathology and
Genetics of Head and Neck Tumours, Chapter I. International
Agency for Research on Cancer (IARC), Lyon. Pp. 35‐42.
Ngày nhận bài báo 16‐06‐2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23‐06‐2013
Ngày bài báo được đăng: 15–07‐2013