Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa
được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế
độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng
lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc
kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho
SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối
cảnh hiện nay. Mục tiêu của bài viết này nhằm xác định quan điểm của các kế toán trưởng SMEs về
VAS, về chất lượng thông tin báo cáo tài chính của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu
cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Dữ liệu thu thập thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 358
kế toán trưởng của SMEs ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận. Kết quả phân tích thống kê đã khẳng
định chất lượng thông tin báo cáo tài chính SMEs không đáng tin cậy và VAS chỉ phù hợp với SMEs
ở mức trung bình. Cho nên, SMEs ủng hộ xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs và có nhu
cầu áp dụng IFRS for SMEs khá cao. Kết quả phân tích này rất hữu ích cho các nhà chuyên môn
nghề nghiệp, các nhà ban hành quy định kế toán trong quá trình thay đổi, cải tiến các quy định về
kế toán cho SMEs Việt Nam.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức của doanh nghiệp nhỏ và vừa về chuẩn mực kế toán Việt Nam và nhu cầu áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NHẬN THỨC CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ
CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ NHU CẦU ÁP DỤNG
CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Hồ Xuân Thủy*
TÓM TẮT
Những chuẩn mực kế toán đầu tiên của Việt Nam ban hành năm 2001 đến nay vẫn chưa
được cập nhật và sửa đổi. Bộ Tài Chính vừa ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế
độ kế toán doanh nghiệp, mặc dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn với IFRS, nhưng cũng chỉ dừng
lại ở góc độ thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS). Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý công việc
kế toán, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Do đó, nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho
SMEs và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho SMEs (IFRS for SMEs) là rất cần thiết trong bối
cảnh hiện nay. Mục tiêu của bài viết này nhằm xác định quan điểm của các kế toán trưởng SMEs về
VAS, về chất lượng thông tin báo cáo tài chính của SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu
cầu cần áp dụng IFRS for SMEs. Dữ liệu thu thập thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi với 358
kế toán trưởng của SMEs ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận. Kết quả phân tích thống kê đã khẳng
định chất lượng thông tin báo cáo tài chính SMEs không đáng tin cậy và VAS chỉ phù hợp với SMEs
ở mức trung bình. Cho nên, SMEs ủng hộ xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs và có nhu
cầu áp dụng IFRS for SMEs khá cao. Kết quả phân tích này rất hữu ích cho các nhà chuyên môn
nghề nghiệp, các nhà ban hành quy định kế toán trong quá trình thay đổi, cải tiến các quy định về
kế toán cho SMEs Việt Nam.
Từ khóa: Chuẩn mực kế toán Việt Nam, báo cáo tài chính, SMEs, IFRS for SMEs
PERCEPTIONS OF SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES REGARDING
VIETNAMESE ACCOUNTING STANDARDS AND THE NEED OF
IMPLEMENTING THE INTERNATIONAL FINANCIAL REPORTING
STANDARDS FOR SMALL AND MEDIUM-SIZED ENTITIES
ABSTRACT
The very first Vietnamese accounting standards (VAS) introduced in 2001 has remained
without updates and modifications since then. Although the Ministry of Finance recently issued
the Circular 200/2014/TT-BTC regarding entity accounting regulations with some updates in line
with the IFRS, it was but a superficial instruction without rational modifications to the current
* GV.NCS. Trường Đại học Kinh tế - Luật TP.HCM. Email: hoxuanthuy@uel.edu.vn
23
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
Vietnamese Accounting Standard (VAS). This fact has caused substantial difficulties to entities, in
particular small and medium-sized entities (SMEs), when referring to legal procedures in daily
accounting activities and hence has justified the current demand for researches about VAS for SMEs
and the International Financial Reporting Standards (IFRS) for SMEs. This paper, therefore, aims
to determine the general perceptions of Chief Accountants in many SMEs about VAS, the quality
of recent financial reports of their SMEs, and the need for implementing IFRS for SMEs. Data are
collected from questionnaires to 385 Chief Accountants of SMEs in HCM City and neighbouring
provinces. Our analysis shows that financial reports from SMEs are of unreliable qualities and
the level of compatibility of VAS to SMEs can only be rated “average”. Therefore, we conclude
that SMEs are largely in favour of a separate set of accounting standards and that the need of
implementing of IFRS for SMEs is considerably high. Our findings are particularly useful for
professional experts and accounting regulators to amend and improve accounting regulations and
policies for SMEs in Vietnam.
Keywords: Vietnamese accounting standards, financial reporting, SMEs, IFRS for SMEs
1. GIỚI THIỆU
SMEs là thành phần kinh tế nhiều tiềm
năng và là xương sống cho sự phát triển của
cả các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Vì thế, thông tin kế toán được cung cấp bởi
các doanh nghiệp (DN) này là đặc biệt quan
trọng [24]. Chuẩn mực kế toán thích hợp sẽ
giúp DN lập báo cáo tài chính (BCTC) có chất
lượng đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho
các đối tượng sử dụng thông tin. VAS được
ban hành đầu tiên năm 2001. Mặc dù, VAS
được xây dựng trên cơ sở của IFRS nhưng
đã lạc hậu do không được cập nhật, sửa đổi
trong một thời gian dài và còn khác biệt quá
nhiều so với IFRS nên không thể đảm bảo
cung cấp thông tin có thể so sánh với các DN
khác trên thế giới. Trong thời gian vừa qua,
Bộ Tài Chính (BTC) ban hành thông tư (TT)
200/2014/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán
DN [4], dù có nhiều cải tiến mới tiệm cận hơn
với IFRS nhưng cũng chỉ dừng lại ở góc độ
thông tư hướng dẫn, chưa điều chỉnh toàn bộ
VAS. Hơn nữa, thông tư đề cập “những nội
dung tại các thông tư hướng dẫn VAS không
trái với TT 200/2014/TT-BTC thì vẫn còn
hiệu lực”. Điều này gây khó khăn cho các
DN khi tham chiếu văn bản pháp quy để xử lý
công việc kế toán, đặc biệt là SMEs trong quá
trình áp dụng VAS vì BTC không quy định bỏ
quyết định (QĐ) số 48/2006/QĐ-BTC mà chỉ
yêu cầu SMEs tự dựa vào TT 200/2014/TT-
BTC để kế toán cho phù hợp.
Mặt khác, SMEs Việt Nam (VN) ngày càng
tăng cường tham gia vào các hoạt động quốc
tế, yêu cầu thông tin tài chính minh bạch trở
nên bức thiết. “Chiến lược kế toán- kiểm toán
đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt theo QĐ 480/2013/
QĐ-TTg cũng đã xác định quan điểm là “hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý hệ thống chuẩn mực”,
“hòa nhập với thông lệ quốc tế” [10]. Vì thế,
cũng như các quốc gia khác, Việt Nam cũng
đang có những áp lực về hội tụ kế toán quốc tế.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện nghiên cứu
về VAS và IFRS for SMEs dựa trên nhận thức
của SMEs là thật sự cần thiết trong điều kiện
hội tụ kế toán quốc tế diễn ra mạnh mẽ đồng
thời IFRS for SMEs đã ban hành và được áp
dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển.
24
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Người tạo lập thông tin BCTC của SMEs
là một trong những thành phần quan trọng nhất
đóng vai trò quyết định sự thành công quá trình
áp dụng VAS cũng như hội tụ với kế toán quốc
tế ở VN. Bài viết này nhằm thu thập quan
điểm của kế toán trưởng (KTT) SMEsvề VAS
hiện hành, về chất lượng thông tin BCTC của
SMEs trong thời gian vừa qua và xác định nhu
cầu của SMEs cần hội tụ với IFRS for SMEs.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích
thống kê dựa trên dữ liệu được thu thập thông
qua bảng câu hỏi khảo sát 358 KTT SMEs ở
TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An
Kết quả nghiên cứu này thật sự cần thiết và thu
hút sự quan tâm của các nhà chuyên môn nghề
nghiệp kế toán và các nhà ban hành chuẩn
mực trong quá trình xem xét, cải tiến các quy
định kế toán cho SMEs VN vì thiếu hụt các
nghiên cứu đánh giá VAS áp dụng cho SMEs
trong thời gian vừa qua.Đồng thời,kết quả của
nghiên cứu cũng góp phần bổ sung thêm vào
các nghiên cứu trước quan điểm về nhu cầu
cần áp dụng IFRS for SMEs của một quốc gia
đang phát triển với đặc thù áp dụng IFRS còn
khá hạn chế như VN.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. VAS và các quy định pháp lý về kế
toán cho SMES Việt Nam
Tại VN, SMEs đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, và đóng góp cho ngân
sách Nhà nước (NN). Vì thế, NN đã ban hành
nhiều chính sách, quy định để hỗ trợ SMEs
phát triển. Theo đó, xác định tiêu chí phân
loại SMEs, bắt đầu bằng Công văn số 681/
CP-KTN ngày 20/6/1998 [13]. Theo quy định
này, SMEs là DN có số lao động bình quân
dưới 200 người và vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng.
Tiếp sau, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày
23/11/2001 quy định tiêu chí chính thức phân
loại SMEs cũng dựa trên vốn và lao động [12].
Đó là, SMEs là DN có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng và số lao động không quá 300
người. Hiện nay, SMEs đã được phân loại chi
tiết hơn theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, chia
thành 3 nhóm siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo từng
lĩnh vực kinh doanh dựa vào số lượng lao
động hoặc quy mô vốn xác định theo tổng tài
sản trên bảng cân đối kế toán [11].
Song song đó, các quy định về kế toán
liên quan đến SMEs cũng được ban hành.
Đầu tiên phải kể đến là chế độ kế toán cho
SMEs ban hành theo quyết định số 1171/TC/
QĐ-CĐKT ngày 23/12/1996 [8], sau đó là
quyết định số 144/TC/QĐ-CĐKT quy định
sửa đổi bổ sung chế độ kế toán theo quyết
định 1171/TC/QĐ-CĐKT ngày 21/12/2001
giúp SMEs có những hướng dẫn cụ thể trong
xử lý công việc kế toán [7]. Để hội nhập với
kế toán quốc tế, xây dựng khuôn khổ pháp lý
về kế toán cho các DN, được sự trợ giúp của
Liên minh Châu Âu, trong gần 7 năm nghiên
cứu và triển khai, những VAS đầu tiên của
VN đã được ban hành vào năm 2001. Cho
đến nay, đã có tất cả 26 VAS được ban hành.
Sau khi hoàn tất việc ban hành VAS, BTC
cũng đã ra các quyết định về chế độ kế toán
DN cho DN lớn (QĐ 15/2006/QĐ-BTC) và
SMEs (QĐ 48/2006/QĐ-BTC) [5],[6]. Theo
quyết định 48/2006/QĐ-BTC, trong 26 VAS,
quy định áp dụng VAS cho SMEs được chia
thành 3 nhóm, nhóm các VAS áp dụng đầy
đủ, áp dụng không đầy đủ và nhóm các VAS
không áp dụng đối với SMEs [6]. Tuy nhiên,
đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu thông
tin kế toán đối với SMEs mang tính đặc thù
không giống các DN có quy mô lớn. Do đó, áp
dụng chung VAS với những quy định giảm trừ
dẫn đến thông tin kế toán dàn trải, không đáp
ứng tập trung nhu cầu thông tin cho nhóm đối
25
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
tượng này. Một số VAS không áp dụng hoặc
áp dụng không đầy đủ đã gây tình trạng thiếu
quy định để tham chiếu khi xử lý công việc kế
toán nhưng mặt khác vẫn tồn tại một số quy
định không cần thiết. Trong xu thế hội nhập
kế toán quốc tế ngày càng mạnh mẽ, VN cũng
đã có những nỗ lực để hoàn thiện hệ thống
chuẩn mực kế toán. Dự thảo chỉnh sửa, bổ
sung các nội dung liên quan đến 8 chuẩn mực
kế toán đã ban hành lấy ý kiến. TT 200/2014/
TT-BTC về chế độ kế toán cho DN cũng đã
ban hành vào ngày 22/12/2014 với các quy
định phù hợp hơn với IFRS [4]. Tuy nhiên, sự
khác biệt giữa VAS và IFRS vẫn còn khá xa
và tốc độ hội tụ được đánh giá còn chậm. Mặt
khác, BTC cũng chỉ mới dừng lại ở thông tư
hướng dẫn chế độ kế toán, chưa có sự đổi mới
toàn diện liên quan đến hệ thống chuẩn mực
kế toán. Đồng thời, QĐ 48/2006/QĐ-BTC
vẫn còn hiệu lực với những quy định cũ đã
gây nhiều khó khăn cho SMEs trong giai đoạn
hiện nay [6].
2.2. IFRS FOR SMES và áp dụng IFRS
FOR SMES trên thế giới
Toàn cầu hóa đã thúc đẩy nhu cầu cần
chuẩn mực BCTC riêng cho SMEs. SMEs
ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động
quốc tế, nhu cầu thông tin BCTC đáng tin cậy
vả có thể so sánh được với các DN khác trên
thế giới nảy sinh đòi hỏi phải có những quy
định, chuẩn mực kế toán có có chất lượng.
IFRS là một bộ chuẩn mực được đề nghị áp
dụng. Tuy nhiên, SMEs bị hạn chế về nguồn
lực, đồng thời không có nhiều nghiệp vụ phức
tạp như các DN lớn nên việc áp dụng IFRS
trở nên không cân xứng giữa chi phí và lợi
ích. Với mục tiêu cung cấp cho SMEs trên
toàn thế giới một bộ chuẩn mực phù hợp
giúp SMEs thuận lợi hơn khi tham gia vào
thị trường quốc tế, tháng 7/2009, Hội đồng
Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã ban
hành IFRS for SMEs. IFRS for SMEs là bộ
chuẩn mực độc lập, dài 230 trang, trình bày
thành 35 phần cho từng chuẩn mực. IFRS for
SMEs đơn giản hơn IFRS về cả yêu cầu công
bố, đo lường và phương pháp ghi nhận, đồng
thời chú ý đến sự cân đối giữa chi phí và lợi
ích khi áp dụng cho SMEs.
Quyết định áp dụng IFRS for SMEs là
tự nguyện, tuy nhiên IASB mong muốn bộ
chuẩn mực này sẽ được chấp nhận rộng rãi
trên toàn thế giới. Theo IASB, SMEs là: “các
công ty không có trách nhiệm giải trình công
khai và phát hành BCTC cho đối tượng bên
ngoài DN”. IASB cho rằng, các quốc gia khi
chấp nhận áp dụng IFRS for SMEs sẽ tự quyết
định tiêu chí DN phù hợp nên áp dụng [16].
Theo Pacter [23], từ khi ban hành đến năm
2011, 74 quốc gia đã tiếp nhận và đang xây
dựng lộ trình áp dụng trong 3 năm tiếp theo.
Lý do một số quốc gia vẫn chưa áp dụng
IFRS for SMEs được Ploybut [25] đề cập là:
quốc gia đã có chuẩn mực BCTC cho SMEs,
IFRS for SMEs quá phức tạp cho SMEs có
quy mô nhỏ hay SMEs thích chuẩn mực kế
toán quốc gia hơn vì phù hợp với kế toán
thuế. Các quốc gia đã áp dụng IFRS for
SMEs thường theo hai cách thức phổ biến là
áp dụng hoàn toàn không sửa đổi như Nam
Phi, Singapore, Philippines, Campuchia hoặc
là có điều chỉnh nhưng không nhiều cho phù
hợp với điều kiện của quốc gia như Hồng
Kông, Brazil. Một số quốc gia khác cũng đã
có kế hoạch cho việc áp dụng như Anh, mặc
dù đã ban hành chuẩn mực kế toán quốc gia
riêng cho các công ty chưa niêm yết nhưng
cũng xây dựng dự thảo sửa đổi bộ chuẩn mực
này dựa trên IFRS for SMEs và dự kiến áp
dụng bắt đầu năm 2015[17], [18]. Malaysia từ
tháng 2/2014 đã ban hành chuẩn mực BCTC
26
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cho SMEs (MPERS) xây dựng dựa trên IFRS
for SMEs và dự kiến áp dụng năm 2016[20].
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trước
BCTC cho SMEs và chuẩn mực BCTC
riêng cho SMEs bắt đầu thu hút sự quan
tâm mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu từ đầu
những năm 2000, khi dự án xây dựng IFRS for
SMEs được IASB ban hành. Các nghiên cứu
trước được tổng quan trong bài viết này xoay
quanh những vấn đề về BCTC cho SMEs và
nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs.
Maingot & Zeghal [19] thực hiện nghiên
cứu đánh giá nhận thức của 600 KTT, chủ
DN, nhà quản lýSMEs Canada về những khó
khăn khi lập BCTC và sự lựa chọn của các
đối tượng này về mô hình BCTC tốt nhất cho
SMEs Canada. Sử dụng phương pháp định
lượng thông qua khảo sát bằng bảng câu hỏi
đóng và thu được 162 bảng trả lời. Kết quả
của nghiên cứu cho thấy mục đích lập BCTC
của SMEs chủ yếu cho thuế và ngân hàng.
SMEs nhận định chuẩn mực kế toán hiện
hành quá phức tạp, tốn nhiều chi phí cho việc
tuân thủ và không thích hợp cho SMEs. SMEs
đề nghị áp dụng một bộ chuẩn mực kế toán
chung cho tất cả DN nhưng có yêu cầu giảm
trừ cho SMEs. Những yêu cầu giảm trừ được
tán thành nhiều nhất là giảm những quy định
phức tạp và giảm yêu cầu công bố, đồng thời
bắt buộc SMEs phải kiểm toán BCTC.Kết
quả nghiên cứu tương tự, Dang et al [15] thực
hiện nghiên cứu định tính khi thực hiện phỏng
vấn với 19 chuyên gia gồm cả người tạo lập
và người sử dụng thông tin của BCTC SMEs
về đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu của
đối tượng sử dụng thông tin BCTC của SMEs
VN. Kết quả cho thấy cơ quan thuế và các
cơ quan NN khác là đối tượng chính sử dụng
BCTC của SMEs. BCTC chủ yếu được lập
để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, không sử
dụng cho mục đích kinh tế. Chất lượng thông
tin BCTC thấp vì chủ DN không nỗ lực để
tăng chất lượng thông tin mà còn chi phối đến
kế toán để cung cấp những thông tin không
chính xác phục vụ cho mục đích thuế.
Ngoài ra, Atik [2] khám phá nhận thức của
chủ sở hữu, nhà quản lý và KTT của SMEs
Thổ Nhĩ Kỳ về IFRS for SMEs. Phương pháp
chọn mẫu thuận tiện được sử dụng để gửi bảng
câu hỏi khảo sát đến gần 2.700 SMEs. 216
chủ DN, nhà quản lý và kế toán viên SMEs
phản hồi với tỷ lệ 8%. Kết quả khảo sát khẳng
định SMEs chủ yếu lập BCTC cho mục đích
thuế và SMEs rất ủng hộ việc áp dụng IFRS
for SMEs.
Bunea et al [9] cũng thực hiện xác định
quan điểm của các kế toán viên (KTV) SMEs
Romania về BCTC của SMEs. Dữ liệu được
thu thập bằng bảng câu hỏi khảo sát 190 KTV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hơn một nửa
đối tượng khảo sát khẳng định chuẩn mực
kế toán hiện hành không phù hợp với SMEs
và Romania cần xây dựng chuẩn mực BCTC
riêng cho SMEs với những quy định đơn giản
hơn. Tuy nhiên, không nhiều KTV cho rằng
IFRS for SMEs là bộ chuẩn mực đơn giản
thích hợp với SMEs. Nghiên cứu này cũng
khẳng định đối tượng chính sử dụng thông tin
BCTC của SMEs là cơ quan thuế, chủ DN và
những đối tượng cung cấp vốn cho hoạt động
của SMEs.
Albu et al [1] khám phá nhận thức của các
đối tượng có liên quan đến BCTC của SMEs ở
4 quốc gia mới nổi là Séc, Hungary, Romania
và Thổ Nhĩ Kỳ về việc áp dụng IFRS for
SMEs bằng phương pháp định tính thông qua
phỏng vấn sâu. Nghiên cứu cho thấy hầu hết
các các chuyên gia đều tán thành quá trình hội
tụ với IFRS for SMEs.
Tại VN, liên quan đến kế toán cho SMEs,
27
Nhận thức của doanh nghiệp . . .
Trần Đình Khôi Nguyên [27] chọn mẫu là
SMEs Đà Nẵng để thực hiện nghiên cứu
nhằm xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến vận
dụng VAS trong SMEs. Kết quả nghiên cứu
đã kết luận BCTC chưa được sử dụng hữu ích
đúng nghĩa đối với ngân hàng cũng như chủ
DN vànhư vậy có nghĩa là những nỗ lực cải
cách kế toán trong thời gian vừa qua hầu như
chưa thực sự gây ra sự chuyển biến gì đối với
SMEs.
Về IFRS for SMEs, khi chuẩn mực này
được IASB ban hành, Chúc Anh Tú [14] cũng
có một nghiên cứu bàn về IFRS for SMEs.
Trong nghiên cứu này, tác giả trình bày mục
đích của IFRS for SMEs, một số nội dung
quy định của bộ chuẩn mực này. Tác giả cho
rằng việc xây dựng chuẩn mực kế toán cho
SMEs là hoàn toàn cần thiết đối với các quốc
gia trên thế giới nói chung và VN nói riêng.
Từ quan điểm đó, nghiên cứu đề nghị một số
giải pháp thực hiện để hoàn thiện VAS cho
SMEs Việt Nam. Tương tự Phạm Quang Huy
[26] trong bài nghiên cứu so sánh giữa IFRS
for SMEs và IFRS cũng đồng tình là IFRS
for SMEs là căn cứ quan trọng để VN nghiên
cứu ban hành những chính sách thay đổi VAS
cho SMEs nhằm cung cấp thông tin minh
bạch và đầy đủ hơn. Một nghiên cứu khác của
Nguyễn Vũ Việt & Mai Ngọc Anh [22] tiến
hành so sánh sự khác biệt giữa VAS và IFRS
for SMEs và cũng đề nghị sửa đổi VAS theo
IFRS for SMEs.
Nhìn chung, kết luận từ các nghiên cứu
trên thế giới về IFRS for SMEs mang nặng
tính đặc thù của từng quốc gia, chưa thể kết
luận chung cho tất cả các quốc gia đang phát
triển, đặc biệt là VN, một quốc gia có nền
kinh tế mới nổi và việc hội tụ với IFRS còn
khá hạn chế. Về các nghiên cứu thực hiện tại
VN, theo Trần Đình Khôi Nguyên [27], trong
số các nghiên cứu về kế toán của SMEs đã
được công bố, các nghiên cứu trong nước thời
gian qua chủ yếu chỉ bàn về tổ chức công tác
kế toán hay chế độ kế toán cho SMEs, các
nghiên cứu đánh giá thực trạng VAS áp dụng
cho SMEscòn hạn chế và hầu như không có
nghiên cứu thực hiện khảo sát để tìm hiểu
nhu cầu của SMEs về IFRS for SMEs. Vì thế,
cần thiết thực hiện nghiên cứu đánh giá tình
hình áp dụng VAS đối với SMEs, chất lượng
BCTC của SMEs cũng như xác định nhu cầu
cần IFRS for SMEs để có các biện pháp hỗ
trợ SMEs trong quá trình hội tụ với kế toán
quốc tế.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định quan
điểm của SMEs về VAS, về chất lượng thông
tin BCTC cho SMEs và nhu cầu cần áp dụng
IFRS for SMEs. Để đạt được mục tiêu đó, tác
giảxây dựng một bảng câu hỏi khảo sát gồm
20 câu, dựa vào các nghiên cứu của Bunea et
al [9], Maingot & Zeghal [19] và điều chỉnh
cho phù hợp với điều kiện VN. Bảng câu hỏi
bao gồm 3 phần: (1) thông tin chung về DN
khảo sát, (2) đánh giá VAS hiện hành áp dụng
cho SMEs và (3) nhu cầu cần IFRS for SMEs
Nghiên cứu thực hiện kỹ thuật chọn mẫu theo
cụm, áp dụng cả hai hình thức phỏng vấn trực
tiếp và gửi mail đến 1.063 KTT của SMEs
tham gia sinh hoạt câu lạc bộ thuế dành cho
đối tượng là DN có vốn đầu tư nước ngoài
(FAC) và câu lạc bộ thuế, tài chính, kế toán
của Phỏng thương mại và công nghiệp VN,
chi nhánh TP.HCM (TAF). Sau gần 4 tháng
thực hiện khảo sát, có 408 bảng phản hồi.
Trong đó, số lượng bảng phản hồi bị loại trừ
là 50 do trùng mẫu, thiếu thông tin DN, công
ty niêm yết, NH, CK. Số bảng câu hỏi còn
lại đưa vào xử lý là 358, chiếm tỷ lệ 35,98%.
Nghiên cứu sử dụng thông kê mô tả như đồ
28
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
thị, bảng thống kê để phân tích dữ liệu khảo sát dựa vào phần mềm SPSS 20.0 và Excel 2010.
Một số đặc điểm th