Trong các bên liên quan của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) thì nhận thức của
khách hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã bàn đến tác động
của nhận thức của khách hàng về CSR đến chất lượng mối quan hệ thương hiệu – khách hàng,
nhận dạng thương hiệu, hành vi của khách hàng, Bài viết tổng kết các nghiên cứu trước đây
liên quan đến nhận thức của khách hàng về CSR và đề xuất các hướng nghiên cứu trong tương
lai. Nghiên cứu đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo: bổ sung các biến trung gian, cũng như tập
trung vào đối tượng khách hàng, lĩnh vực dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi ích từ các hoạt động CSR.
13 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức của khách hàng về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tổng kết lý thuyết và thảo luận một số định hướng nghiên cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
NHẬN THỨC CỦA KHÁCH HÀNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH
NGHIỆP, TỔNG KẾT LÝ THUYẾT VÀ THẢO LUẬN MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG
NGHIÊN CỨU
CONSUMERS’ PERCEPTIONS OF CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY: A REVIEW
OF THE LITERATURE AND DISCUSS DIRECTIONS FOR FUTURE RESEARCH
Trần Nguyễn Khánh Hải1
Ngày nhận: 27/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 10/4/2018 Ngày đăng: 5/8/2018
1 Trường Đại học Tài chính – Markeitng
Tóm tắt
Trong các bên liên quan của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) thì nhận thức của
khách hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã bàn đến tác động
của nhận thức của khách hàng về CSR đến chất lượng mối quan hệ thương hiệu – khách hàng,
nhận dạng thương hiệu, hành vi của khách hàng, Bài viết tổng kết các nghiên cứu trước đây
liên quan đến nhận thức của khách hàng về CSR và đề xuất các hướng nghiên cứu trong tương
lai. Nghiên cứu đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo: bổ sung các biến trung gian, cũng như tập
trung vào đối tượng khách hàng, lĩnh vực dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi ích từ các hoạt động CSR.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), nhận thức của khách hàng về CSR,
Abstract
Customer perception plays a very important role in the corporate social responsibility (CSR)
stakeholders. A number of empirical studies have examined the impact consumer perceptions of
CSR on behavior, brand - customer relationship quality, brand identification, customers’
behavior, ... This paper summarizes previous research concerning consumer perceptions of CSR
and propose future research. The study proposes future reasearch: the addition of intermediate
variables, as well as the focus on customers and services to maximize the benefits of CSR
activities.
Key word: Corporate Social Responsibility, consumer perceptions of CSR,
52
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của
các doanh nghiệp dịch vụ, chiến lược xây
dựng thương hiệu đã nổi lên như là lợi thế
cạnh tranh để tăng thị phần và giảm
chuyển đổi thương hiệu. Thêm vào đó,
trình độ dân trí ngày càng cao, cùng với sự
đa dạng, đảm bảo chất lượng của hàng hóa
và dịch vụ ngày càng tốt, các chương trình
marketing ngày càng hấp dẫn thì để thành
công và tồn tại trên thị trường như hiện
nay, đòi hỏi các thương hiệu cần phải thiết
lập mối quan hệ mật thiết đối với khách
hàng để nâng cao cạnh tranh. Vì vậy, việc
nghiên cứu cách thiết lập mối quan hệ mật
thiết với khách hàng là hết sức quan trọng.
Về mặt này, trách nhiệm xã hội thực
hiện khá tốt, nó liên quan đến việc thiết
lập mối quan hệ mật thiết bằng cách cách
quan tâm đến những lợi ích của họ. Thông
qua trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
có thể khiến khách hàng hài lòng và doanh
nghiệp có thể hưởng lợi từ mối quan hệ
mật thiết này. Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility – gọi tắt là CSR) đóng vai
trò quan trọng trong lý thuyết kinh doanh
và đặc biệt trong vài thập niên gần đây dã
thu hút sự quan tâm, chú ý đáng kể của các
doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu hàn lâm
và thực hành; đặc biệt trong lĩnh vực cảm
nhận của khách hàng và đáp ứng của CSR.
Nghiên cứu này muốn tổng kết các kết
quả nghiên cứu trong thời gian qua về các
chủ đề về nhận thức của khách hàng về
CSR để từ đó đề xuất một số hướng
nghiên cứu được thực hiện trong tương lai.
Cụ thể, bài báo phân tích so sánh và tổng
hợp những bài báo được đăng trên các tạp
chí thuộc danh mục Scopus và ISI cũng
như những bài báo được đăng trong các
tạp chí ở Việt Nam nhằm đưa ra định
hướng khuyến khích phát triển CSR và đề
xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo về
CSR. Cấu trúc bài viết bao gồm: (1) giới
thiệu, (2) phương pháp luận về CSR, (3)
tổng kết các kết quả nghiên cứu CSR, (4)
kết luận và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp
theo.
2. Phương pháp luận về CSR
2.1 Khái niệm CSR
Khái niệm CSR xuất hiện từ thập niên
1930, và đã được định nghĩa lần đầu tiên
vào năm 1953 bởi Bowen. Ông cho rằng
CSR là trách nhiệm của chủ các doanh
nghiệp không làm tổn hại đến các
quyền và lợi ích của người khác; chủ
doanh nghiệp phải có lòng từ thiện và bù
đắp những thiệt hại do doanh nghiệp mình
gây ra khi làm tổn hại cho xã hội. Điều
này được khái quát thành khái niệm
“trách nhiệm xã hội của những nhà kinh
doanh là những nghĩa vụ phù hợp với
những mục tiêu và giá trị của xã hội mà
nhà kinh doanh phải thực hiện khi theo
đuổi chính sách và đưa ra quyết định cho
hoạt động kinh doanh của mình
“(Browen, 1953, trang 6).
Từ đó đến nay, mỗi tổ chức, doanh
nghiệp, Chính phủ, nhìn nhận CSR dưới
53
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
những góc độ và quan điểm riêng, phụ
thuộc vào điều kiện, đặc điểm và bối cảnh
cụ thể thực hiện chiến lược kinh doanh
(Dahlsrud, 2008; Chang và Yeh, 2016).
Khái niệm về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp là chủ đề của cuộc tranh
luận đáng kể giữa nhà nghiên cứu tùy vào
cách xác định các khái niệm: trách nhiệm,
xã hội và doanh nghiệp.
Carroll (1991) “CSR bao gồm sự mong
đợi của xã hội về kinh tế, pháp luật, đạo
đức và từ thiện đối với các tổ chức tại một
thời điểm nhất định”. Ông đã đề xuất bốn
cấp độ (kim tự tháp) của CSR: trách
nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ
thiện.
Theo liên minh Châu Âu (2011) CSR
là một quá trình mà các công ty tích hợp
các vấn đề xã hội, môi trường và đạo
đức vào các hoạt động kinh doanh và
chiến lược của họ trong sự tương tác
chặt chẽ với các bên liên quan, vượt
trên những yêu cầu của pháp luật và
thỏa ước tập thể.
Ngân hàng thế giới cho rằng “CSR là
sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp
vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông
qua những hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng đời sống của người lao động và các
thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và
toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh
nghiệp cũng như phát triển chung của xã
hội”. Nói cách khác, doanh nghiệp muốn
phát triển bền vững luôn phải tuân theo
những chuẩn mực về bảo vệ môi trường,
bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền
lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo
và phát triển nhân viên và phát triển cộng
đồng. CSR được thể hiện một cách cụ thể
trên các yếu tố, các mặt, như: bảo vệ môi
trường; đóng góp cho cộng đồng xã hội;
thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung
cấp; bảo đảm lợi ích và an toàn cho người
tiêu dùng; quan hệ tốt với người lao động;
và đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người
lao động trong doanh nghiệp. Với những
nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã
hội thì việc thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp không chỉ làm cho
doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn
góp phần vào sự phát triển bền vững của
xã hội nói chung.
Du và cộng sự, 2011 cho rằng “CSR là
cam kết của một công ty để tối đa hoá kinh
tế, xã hội và môi trường lâu dài thông qua
các hoạt động kinh doanh, các chính sách
và các nguồn lực" (Du và cộng sự, 2011,
trang 1). Định nghĩa này phù hợp với
nghiên cứu vì nó cho phép xác định các
thành phần CSR trực tiếp từ mô hình phát
triển bền vững và tính hợp lý bền vững
của nó nhằm mục đích quản lý và điều
hành (Kakabadse và Rozuel 2006). Định
nghĩa này cho phép vận dụng nhận thức
của người tiêu dùng về thực tiễn kinh
doanh, chính sách và nguồn lực CSR liên
quan đến các khía cạnh kinh tế, xã hội và
môi trường. Nó hỗ trợ ý tưởng CSR là một
cấu trúc phản chiếu đa chiều có ba đặc
điểm - phát triển kinh tế, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường - tương ứng với các
54
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
thành phần của phát triển bền vững (Van
Marrewijk, 2003).
Aguinis (2011, trang 855) cho rằng
thực tiễn CSR là “các hành động và chính
sách tổ chức cụ thể theo ngữ cảnh có tính
đến kỳ vọng của các bên liên quan và lý
thuyết bộ ba cốt lõi bền vững về hiệu quả
kinh tế, xã hội và môi trường”. CSR được
chia thành ba thành phần, đó là trách
nhiệm kinh tế, xã hội và môi trường. Hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và văn
hoá doanh nghiệp phải bền vững trong tất
cả ba khía cạnh này. Định nghĩa này được
nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận (ví dụ:
Rupp, 2011; Rupp và cộng sự, 2010).
Có khá nhiều quan điểm khác nhau
trong việc xây dựng khái niệm trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp. Bản chất cơ bản
của các định nghĩa này là tương tự nhau và
cũng là nội dung mà các tổ chức đang tiến
hành các hoạt động CSR để sản xuất các
sản phẩm an toàn, ý thức về môi trường,
nhận thức về các vấn đề hàng đầu của xã
hội và các hoạt động từ thiện để đạt được
tính bền vững trong thị trường kinh doanh.
Một cách chung nhất, C S R là các
doanh nghiệp phải có trách nhiệm đóng
góp vào sự phát triển bền vững của nền
kinh tế, xã hội cùng với bảo vệ môi
trường.
2.2 Các lý thuyết được sử dụng
trong nghiên cứu CSR
Lý thuyết bộ ba cốt lõi bền vững
(Triple-bottom line theory – TBL) Hình
1 - Mô hình lý thuyết bộ ba phát triển
bền vừng -Triple Bottom Line
(Elkington, 1997)
Lý thuyết này đề cập l ầ n đầu tiên
trong nghiên cứu của Elkington và
cộng sự vào năm 1995. TBL là cấu trúc
để đo lường và báo cáo hiệu suất của
công ty liên quan đến các vấn đề kinh tế,
môi trường và hiệu quả xã hội. Khi đó,
hiểu theo nghĩa hẹp thì TBL là một
khung phân tích về kế toán để đo lường
và lập báo cáo về hoạt động của doanh
nghiệp về cả ba phương diện là kinh tế,
xã hội và môi trường để khuyến khích
các tổ chức kết hợp tính bền vững vào
thực tiễn kinh doanh của họ (Elkington,
1997; SustainAbility, 2010; The
Economist, 2009, Lam, 2016). Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng doanh nghiệp
bền vững là một trong những lợi ích
kinh tế, xã hội và môi trường (Hart và
cộng sự, 2003). Mô hình của lý thuyết
bộ ba cốt lõi bền vững được thể hiện
trong Hình 1 dưới đây.
55
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Hình 2 - Mô hình lý thuyết bộ ba phát triển bền vừng -Triple Bottom Line
(Elkington, 1997) Hình 3 - Mô hình lý thuyết bộ ba phát triển bền vừng -Triple
Bottom Line (Elkington, 1997)
CSR phản ánh kỳ vọng cao nhất của
công dân, người tiêu dùng và nhà đầu tư
về tăng trưởng kinh tế, sự gắn kết xã hội
và bảo vệ môi trường (Eberhard-
Harribey, 2006). Hơn nữa, một số nghiên
cứu dựa trên các điểm lý thuyết của phát
triển bền vững cho thấy rằng người tiêu
dùng có thể phân biệt ba thành phần của
cấu trúc CSR (Kale và Singh, 2007;
Alvarado và cộng sự, 2017). Như vậy, lý
thuyết TBL tạo ra cơ sở lý luận căn bản
cho sự phát triển của CSR.
Lý thuyết các bên liên quan
Lý thuyết các bên liên quan
(Stakeholder theory) được coi là một
trong những lý thuyết trọng tâm tạo nền
tảng cho sự phát triển của lĩnh vực
nghiên cứu về CSR. Theo Freeman
(1984), các bên liên quan là các cá nhân
hoặc nhóm có thể tác động hoặc bị tác
động bởi việc hiện thực hóa sứ mệnh
của một tổ chức. Ngoài ra, các bên liên
quan còn được định nghĩa là những người
tham gia có một quyền hợp thức nào đó
đối với doanh nghiệp (Hill và Jones,
1992) hay những người hoặc các nhóm
chịu rủi ro khi đầu tư (bằng nhân lực hoặc
tài chính) vào một công ty (Clarkson,
1995). Lý thuyết này đề xuất rằng các
quyết định quản lý không nên chỉ làm hài
lòng các cổ đông mà còn hài lòng các bên
liên quan như khách hàng, nhà cung cung
cấp (Clarkson, 1995). Ông cho rằng có hai
nhóm bên liên quan là nhóm tự nguyện
và nhóm không tự nguyện. Các bên liên
quan mang tính tự nguyện chấp nhận, về
mặt khế ước, chịu một số rủi ro còn các
bên liên quan không tự nguyện cũng
phải chịu rủi ro nhưng lại không có bất kỳ
mối liên hệ nào với doanh nghiệp.
52
56
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Các bên liên quan có thể tác động một
cách chính thức hoặc phi chính thức,
mang tính cá nhân hoặc tập thể đến một
tổ chức và từ đó có thể ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến tổ chức. Theo
Carroll (1999), các bên liên quan nên được
xem xét trong định hướng CSR bao gồm
chủ sở hữu (cổ đông), người lao động,
khách hàng, cộng đồng địa phương, và xã
hội. Với mỗi bên liên quan thì doanh
nghiệp lại có những trách nhiệm kinh tế,
pháp luật, đạo đức và từ thiện khác nhau.
CSR dựa trên nền tảng lý thuyết các
bên liên quan tiêu biểu qua các nghiên
cứu của Mandhachitara và Poolthong
(2011), Lee và cộng sự (2015); Perez và
del Bosque (2014, 2015), Khan và cộng
sự (2015). Trong nghiên cứu này, tác giả
tập trung đi sâu vào vấn CSR theo định
hướng khách hàng (CSR Customer –
Centric hay CSR Customer – Driven) vì
khách hàng là đối tượng quan trọng nhất
trong hoạt động của doanh nghiệp cũng
như thương hiệu.
Lý thuyết mô hình kim tự tháp của
Carroll
Carroll (1991) “CSR bao gồm sự
mong đợi của xã hội về kinh tế, pháp luật,
đạo đức và từ thiện đối với các tổ chức tại
một thời điểm nhất định”. Ông đã đề xuất
bốn thành phần của CSR: trách nhiệm
kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện.
Trách nhiệm xã hội về kinh tế và pháp lý
là nền tảng cơ bản của CSR. Trách
nhiệm xã hội về đạo đức và từ thiện được
đặt ở vị trí cao của kim tự tháp.
Định nghĩa này đã được chấp nhận
rộng rãi (Mandhachitara và Poolthong,
2011; Lee và cộng sự, 2015;
Polychronidou và cộng sự, 2014; Saeidi
và cộng sự, 2015). Tuy nhiên, nghiên cứu
trước đây về nhận thức CSR dựa trên Kim
tự tháp Carroll cho thấy nó không phù
hợp với nhận thức của khách hàng, vì họ
không phân biệt được bốn thành phần đề
xuất bởi mô hình (Crespo, 2005;
Alvarado và Shlesinger, 2008; Alvarado
và cộng sự, 2017).
Lý thuyết nhận dạng xã hội
Nhận dạng xã hội được định nghĩa là
hiểu biết của một người cho rằng mình
thuộc về một số nhóm xã hội nhất định có
cùng ý nghĩa về tình cảm và giá trị
(Tajfel, 1972). Lý thuyết nhận dạng xã hội
dựa trên khái niệm rằng mọi người sẽ có
động lực thúc đẩy để gắn bó với những
người được coi là tương tự nhau về các
giá trị, sở thích hoặc các đặc điểm. Nhận
dạng xã hội được phát triển thông qua giá
trị và sự gắn bó tình cảm xuất phát từ các
thành viên trong một nhóm cụ thể (Lam
và cộng sự, 2013).
Một số nghiên cứu đã chứng minh
CSR tác động đến nhận dạng thương hiện
(Lichtenstein và cộng sự, 2004; Marin và
cộng sự, 2009; He và cộng sự, 2011;
Mobin Fatma và cộng sự, 2016). Ngoài
ra, nghiên cứu về sự tự ý thức cho thấy
rằng con người thường có xu hướng nhận
57
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
dạng với một thương hiệu có CSR cao hơn
để nâng cao lòng tự trọng và thể hiện bản
thân với hình ảnh có đạo đức, trách nhiệm
xã hội hơn (Aquino và Reed II, 2002).
Lý thuyết thương hiệu, mối quan
hệ thương hiệu – khách hàng
Trong lý thuyết marketing thì mối
quan hệ là một chuỗi các trao đổi qua lại
giữa hai đối tác hiểu biết lẫn nhau, chúng
biến động theo các tương tác và phụ thuộc
vào hoàn cảnh (Fournier, 1998). Trong
hơn hai thập kỷ qua, trong lý thuyết
thương hiệu, khái niệm mối quan hệ giữa
khách hàng và thương hiệu đã trở thành
một khu vực nghiên cứu đã được thiết lập
và phát triển (Fetscherin & Heinrich,
2014; Keller, 2014).
CSR có xu hướng ảnh hưởng đến sự
tin cậy của thương hiệu (Dauw và cộng sự,
2011). Khách hàng cảm thấy tự tin về chất
lượng sản phẩm hoặc dịch vụ khi họ tin
cậy doanh nghiệp và tin tưởng rằng các
doanh nghiệp đáng tin cậy sẽ có trách
nhiệm đạo đức và xã hội lớn hơn. Kaur và
các cộng sự (2011); Stanaland và cộng sự
(2011); Elizabeth (2011) cho rằng CSR
khuyến khích nguời tiêu dùng tin tưởng
thương hiệu. Garcia de los Salmones và
cộng sự (2005) cho thấy rằng nhận thức
của khách hàng về các hoạt động CSR của
doanh nghiệp có thể ảnh hưởng trực tiếp
đến tin cậy của khách hàng về sản phẩm,
dịch vụ của một doanh nghiệp.
Khách hàng còn có thể sẽ hài lòng hơn
nếu các nhà cung cấp sản phẩm có trách
nhiệm xã hội cao hơn. CSR có thể làm
tăng ích lợi và giá trị được nhận thức, từ
đó tăng cường sự hài lòng của khách hàng.
McDonald và Lai (2011) và Pérez và
Rodríguez del Bosque (2015) tìm thấy mối
quan hệ tích cực đáng kể giữa CSR và sự
hài lòng của khách hàng.
Bên cạnh đó, CSR còn tác động đến sự
cam kết của khách hàng (Bartikowski,
2010; artikowski và Walsh 2011; Inoue,
2017). Các lý thuyết nhất quán nhận thức
(ví dụ, Heider, 1946, Osgood và
Tannenbaum, 1955) cho thấy mọi người
cố gắng duy trì sự hài hòa tâm lý giữa
niềm tin, thái độ và hành vi của họ. Khi
khách hàng có uy tín đối với công ty dịch
vụ, họ có thể có những cam kết nhất định
về lòng tin, cam kết tốt để tiếp tục kinh
doanh với công ty hoặc những hình thức
thiện chí khác để bày tỏ với công ty (ví dụ:
Bettencourt,1997; Zeithaml và cộng sự,
1996).
3. Tổng kết các kết quả nghiên cứu
nhận thức của khách hàng về CSR và
thảo luận
3.1 Các nghiên cứu nhận thức của
khách hàng về CSR trên thế giới
Trong các bên liên quan của CSR thì
khách hàng là bên liên quan quan trọng dễ
chịu ảnh hưởng của CSR (Bhattacharya,
2004). CSR ban đầu được tiếp cận từ quan
điểm của quản lý và các học giả marketing
sau này đã bắt đầu phân tích hiện tượng từ
quan điểm của khách hàng (Brown và
Dacin, 1997; Sen và Bhattacharya, 2001).
58
3
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
CSR định hướng khách hàng hàng bao
gồm tất các các chiến lược về CSR tập
trung hướng vào việc nâng cao sự hài lòng
của khách hàng (Rashid, 2010). Nó mang
lại cho khách hàng những lợi ích thiết thức
như: chất lượng sản phẩm, dịch vụ được
đảm bảo, quan tâm tới quyền lợi của
khách hàng, giá cả phải chăng, quan tâm
đến hoạt động từ thiện xã hội, bảo vệ môi
trường, của khách hàng. Khách hàng
luôn yêu cầu và coi CSR hướng tới quyền
lợi của họ là tối thượng, vượt qua tất cả
CSR định hướng người lao động, cộng
đồng, cổ đông (Maigan và Ferrell, 2003).
Thêm vào đó, một chương trình CSR
thành công khi khách hàng phải nhận thức
được và hài lòng về nó. Để đánh giá được
hiệu quả của CSR thì phải nắm được nhận
thức khách hàng đến các hoạt động CSR
này như thế nào.
Hướng nghiên cứu marketing tập trung
vào cách khách hàng nhận thức các hoạt
động CSR, cụ thể thử nghiệm một hành
động liên quan đến CSR và xem xét ảnh
hưởng của nó đến nhận thức của khách
hàng (Berger và cộng sự, 2007). Nhận
thức của khách hàng liên quan đến cách
thức các cá nhân hình thành ý kiến về
doanh nghiệp và hành vi tiêu thụ các sản
phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
Trong bối cảnh của các nước phát
triển, nhiều nghiên cứu thực nghiệm ủng
hộ quan điểm CSR có tác động tích cực
đến nhận thức của khách hàng
(Mandhachitara and Poolthong, 2011;
Gigauri, 2012b; Parsa và cộng sự, 2015).
Các nghiên cứu đã kiểm tra mối liên hệ
giữa các hoạt động trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp và ảnh hưởng của chúng đến
các kết quả marketing (Klein and Dawar,
2004; Luo và Bhattacharya 2006; Fatma
and Rahman, 2015).
Öberseder và cộng sự (2013) đã cho
rằng nhận thức về CSR rất quan trọng bởi
vì nó có ảnh hưởng đến khách hàng tham
gia vào quá trình gắn kết thương hiệu.
Nhận thức của khách hàng về các hoạt
động CSR là điều kiện tiên quyết cho
những lợi ích của nó, như phản ứng tích
cực (Tian và cộng sự, 2011; Öberseder và
cộng sự, 2013) và sự đồng ý của khách
hàng (Wigley, 2008; Lee và Shin, 2010).
Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy mối
liên hệ tích cực giữa nhận thức của khách
hàng về CSR ở các nền kinh tế phát triển
và miêu tả rằng khách hàng quan tâm và
nhận thức được các hoạt động của CSR và
sử dụng chúng như một tiêu chuẩn mua
hàng (Arli và Lasmono, 2010).
Các nhà nghiên cứu cũng đã cung cấp
bằng chứng cho thấy nhận thức của khách
hàng về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ảnh hưởng đến phản ứng của khách
hàng đối với