Nghiên cứu phân tích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong đó
tập trung vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát, đến mức độ tự vững
của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) chính thức tại Việt Nam.
Biến phụ thuộc được lựa chọn để đánh giá mức độ tự vững của các tổ
chức TCVM là tự vững hoạt động (OSS), tỷ suất sinh lời trên tài sản
(ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE). Bằng phương
pháp hồi qui dữ liệu bảng hiệu ứng ngẫu nhiên, kết quả mô hình cho
thấy, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động tiêu cực đến độ tự
vững thì lạm phát lại có tác động tích cực. Ngoài ra, nghiên cứu còn
tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa qui mô của tổ chức với mức độ tự
vững của tổ chức. Nghiên cứu được kết cấu thành 4 phần: (i) Tổng
quan nghiên cứu, (ii) Mô hình và phương pháp nghiên cứu, (iii) Kết
quả và thảo luận (iv) Kết luận và khuyến nghị.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân tố vĩ mô tác động đến độ tự vững của các tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019
Nhân tố vĩ mô tác động đến độ tự vững của các
tổ chức tài chính vi mô chính thức tại Việt Nam
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Phạm Thị Hoàng Anh
Phan Thị Hồng Thảo
Ngày nhận: 22/01/2019 Ngày nhận bản sửa: 24/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019
Nghiên cứu phân tích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong đó
tập trung vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát, đến mức độ tự vững
của các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) chính thức tại Việt Nam.
Biến phụ thuộc được lựa chọn để đánh giá mức độ tự vững của các tổ
chức TCVM là tự vững hoạt động (OSS), tỷ suất sinh lời trên tài sản
(ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE). Bằng phương
pháp hồi qui dữ liệu bảng hiệu ứng ngẫu nhiên, kết quả mô hình cho
thấy, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tác động tiêu cực đến độ tự
vững thì lạm phát lại có tác động tích cực. Ngoài ra, nghiên cứu còn
tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa qui mô của tổ chức với mức độ tự
vững của tổ chức. Nghiên cứu được kết cấu thành 4 phần: (i) Tổng
quan nghiên cứu, (ii) Mô hình và phương pháp nghiên cứu, (iii) Kết
quả và thảo luận (iv) Kết luận và khuyến nghị.
Từ khóa: Độ tự vững, Lạm phát, Tăng trưởng kinh tế, Tổ chức TCVM
chính thức
1. Tổng quan nghiên cứu
1.1. Tổ chức tài chính vi mô chính thức
ài chính vi mô (TCVM) ra đời
đã thu hút sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu, các khái
niệm về TCVM cũng rất đa dạng.
Theo tác giả Ledgerwood (1998),
"TCVM là một phương pháp phát triển kinh tế
nhằm mang lại lợi ích cho dân cư có thu nhập
thấp. TCVM đề cập đến dịch vụ tài chính cho
khách hàng có thu nhập thấp Cùng với trung
gian tài chính, nhiều tổ chức TCVM cung cấp
các dịch vụ trung gian xã hội". Như vậy, theo
quan niệm này, TCVM không phải là một hoạt
động từ thiện, nó là một phương pháp phát triển
kinh tế. Theo đó, TCVM không chỉ đơn thuần
là tín dụng vi mô mà còn bao gồm nhiều dịch
vụ tài chính và phi tài chính khác. Trong khi đó,
theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB, 2000)
thì TCVM chỉ tập trung đề cập đến các dịch vụ
tài chính cho người nghèo, bao gồm tiền gửi,
cho vay, thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm.
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
Cũng theo ADB, "Tổ chức TCVM là tổ chức có
hoạt động kinh doanh chính là cung cấp dịch vụ
TCVM", bao gồm cả tổ chức ở khu vực chính
thức và bán chính thức. Tổ chức TCVM chính
thức là những tổ chức hoạt động trên cơ sở giấy
phép của ngân hàng trung ương (NHTW), chịu
sự quản lý và giám sát của NHTW. Luật Các Tổ
chức tín dụng (2010) qui định, tổ chức TCVM
là loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu
thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm
đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình
có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
Như vậy, theo qui định này thì tổ chức TCVM
chính thức là những tổ chức được Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) cấp phép chủ yếu
cung cấp các dịch vụ cho đối tượng khách hàng
có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ. Do
đó, các tổ chức TCVM chính thức được đề cập
tới trong nghiên cứu này bao gồm: Tổ chức
TCVM Tình Thương (TYM), tổ chức TCVM
M7 (M7 MFI), tổ chức TCVM Thanh Hóa
(Thanh Hóa MFI) và tổ chức TCVM cho người
lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP).
1.2. Độ tự vững của tổ chức tài chính vi mô
Độ tự vững đề cập đến khả năng mà tổ chức
TCVM có thể trang trải chi phí hoạt động bằng
cách sử dụng doanh thu được tạo ra từ hoạt
động cốt lõi (Woller, Christopher & Warner,
1999; Ledgerwood, 1999). Một tổ chức TCVM
đạt tự vững sẽ cung cấp các dịch vụ cho khách
hàng một cách liên tục và có thể đáp ứng được
nhu cầu của thành viên thông qua các nguồn lực
được huy động từ các hoạt động và các nguồn
lực bên ngoài (UNESCAP, 2006). Đạt được tự
vững là một xu hướng tất yếu do các nguyên
nhân bên trong và bên ngoài. Các nguyên nhân
bên trong thúc đẩy sự tự vững xuất phát từ mối
quan tâm của nhân viên và các nhà quản lý đến
sự an toàn của tổ chức, đặc biệt khi tổ chức
không nhận được trợ cấp từ nhà tài trợ. Trong
khi đó, các nguyên nhân bên ngoài thúc đẩy
sự tự vững có thể kể tới là các khoản tài trợ
ngày càng giảm, sự gia tăng của các ngân hàng
thương mại (NHTM) trong việc cung ứng dịch
vụ TCVM và những thay đổi của công nghệ tài
chính tạo thuận lợi cho tổ chức TCVM giảm chi
phí và nâng cao hiệu quả hoạt động. Có nhiều
mức độ khác nhau để đánh giá độ tự vững của
các tổ chức TCVM chính thức, trong đó ban
đầu là tự vững hoạt động, tiếp theo là tự vững
tài chính và cuối cùng là lợi nhuận.
Tự vững về hoạt động (OSS) thể hiện mối quan
hệ giữa thu nhập hoạt động và tổng chi phí cho
hoạt động; chỉ số này được sử dụng để đánh giá
xem các tổ chức TCVM có tự trang trải chi phí
hoạt động như lương, vật tư, tổn thất cho vay và
các chi phí hành chính khác bằng thu nhập từ
hoạt động hay chưa.
OSS = Doanh thu tài chính / (Chi phí tài chính
+ Dự phòng mất vốn + Chi phí hoạt động) ×
100%
Tỷ lệ OSS =100% cho biết điểm hòa vốn của
tổ chức TCVM tại đó thu nhập hoạt động bằng
với tổng chi phí. Các tổ chức TCVM trẻ, chưa
trưởng thành có thể mất một vài năm để đạt
điểm hòa vốn này. Một tổ chức TCVM được coi
là bền vững về hoạt động nếu OSS>100%, điều
này có nghĩa là tổ chức TCVM có thể trang
trải toàn bộ chi phí hoạt động bằng nguồn thu
từ hoạt động. Tuy nhiên, thông lệ quốc tế cho
thấy, để đạt được độ bền vững hoạt động lâu
dài thì OSS nên lớn hơn 120% (IFAD, 2000).
Bên cạnh tỷ lệ OSS, một số nghiên cứu khác
còn đã sử dụng khả năng sinh lời như một biến
đại diện cho tính bền vững bởi tác giả cho rằng
lợi nhuận là tín hiệu của sự bền vững (Millson,
2013). Theo tác giả, khả năng sinh lời là khả
năng mà tổ chức TCVM tạo ra lợi nhuận trên
tài sản (ROA) và trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả còn sử
dụng thêm các chỉ tiêu thu nhập ròng trên tổng
tài sản bình quân (ROA) và tỷ lệ lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu bình quân (ROE) để phán ánh
mức độ bền vững của các tổ chức TCVM. ROA
đo lường mức độ sinh lời trên tổng tài sản bình
quân của tổ chức TCVM. Tỷ lệ này càng cao
chứng tỏ khả năng sinh lời của tổ chức TCVM
trên 1 đồng tài sản càng lớn, tuy nhiên nếu tỷ
lệ này quá cao thì lại cho thấy mức độ rủi ro
của tổ chức TCVM, bởi nó đầu tư quá nhiều
vào các tài sản có mức rủi ro cao. Theo thông
lệ quốc tế, ROA >2% chứng tỏ tổ chức TCVM
bền vững (IFAD, 2000). ROE đo lường khả
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
71Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu bình quân.
Theo thông lệ quốc tế, ROE ≥ 15% cho thấy
mức độ bền vững của tổ chức TCVM (Nguyễn
Quỳnh Phương, 2017).
1.3. Tác động của môi trường kinh tế vĩ mô tới
độ tự vững của các tổ chức TCVM
Các biến số kinh tế vĩ mô bao gồm: tăng trưởng
kinh tế, lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát.
Trong nghiên cứu này tác giả đề tập tới hai
biến số kinh tế vĩ mô chính là tăng trưởng kinh
tế và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế là sự mở
rộng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay sản
lượng tiềm năng của một nước (Samuelson &
Nordhaus, 2002). Lạm phát biểu thị một sự
tăng lên trong mức giá chung (Samuelson &
Nordhaus, 2002). Tuy nhiên theo quan điểm
của các nhà kinh tế học thuộc phái trọng tiền
hiện đại, lạm phát là sự tăng giá với tốc độ cao
và kéo dài (Tô Kim Ngọc, 2017). Thước đo lạm
phát được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số giảm phát tổng sản
phẩm quốc nội. Trong nghiên cứu này, tác giả
sử dụng chỉ số giá tiêu dùng CPI để phản ánh
tình trạng lạm phát.
Tác động của tăng trưởng kinh tế: Theo truyền
thống, TCVM tập trung vào khách hàng nghèo,
vì vậy, khi nền kinh tế tăng trưởng, thu nhập
của các chủ thể trong nền kinh tế tăng thì nhu
cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ TCVM sẽ
giảm xuống bởi họ có thể tự tài trợ thông qua
tiết kiệm hoặc dễ dàng tiếp cận với khu vực tài
chính chính thức. Và điều này có tác động tiêu
cực đến hoạt động cũng như độ tự vững của các
tổ chức TCVM. Mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và độ tự vững của các tổ chức TCVM đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Njuguna
(2013) kết luận rằng, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
có tác động tích cực đến ROA của 9 tổ chức
TCVM nhận tiền gửi ở Kenya, trong khi đó El-
Maksoud (2016) không tìm thấy tác động có ý
nghĩa thống kê của tăng trưởng kinh tế đến hoạt
động tài chính của các tổ chức TCVM trong
nghiên cứu của mình.
Tác động của lạm phát: Mối quan hệ giữa lạm
phát và hiệu quả tài chính (được thể hiện qua
chỉ tiêu lợi nhuận) của tổ chức TCVM là khá
chặt chẽ và đã được minh chứng qua một số
nghiên cứu. Vanroose & D'Espallier (2009) đã
phát hiện ra rằng tổ chức TCVM có lợi nhuận
thấp hơn khi tỷ lệ lạm phát cao. Tương tự,
Njuguna (2013) cũng tìm thấy bằng chứng về
tác động tiêu cực giữa lạm phát tới lợi nhuận
của các tổ chức TCVM nhận tiền gửi ở Kenya.
Trong khi đó, tác giả EL-Maksoud (2016) cũng
tìm thấy tác động tích cực của lạm phát tới chất
lượng cho vay của tổ chức TCVM.
2. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Tác giả Vanroose & cộng sự (2009) trong
nghiên cứu về mối quan hệ giữa hoạt động
TCVM với sự phát triển của khu vực tài chính
đã đề cập tới các biến vĩ mô, trong đó có lạm
phát, như là biến kiểm soát. Ngoài ra, trong
mô hình, tác giả cũng sử dụng các biến đặc
điểm của tổ chức làm biến kiểm soát như tuổi
và tổng tài sản của tổ chức TCVM. Bằng mô
hình hồi qui dữ liệu bảng hiệu ứng ngẫu nhiên,
nghiên cứu chỉ ra rằng, các tổ chức TCVM có
lợi nhuận thấp hơn khi lạm phát ở mức cao.
Tác giả Njuguna (2013) đã tiến hành đánh giá
tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới hoạt
động tài chính của các tổ chức TCVM nhận
tiền gửi tại Kenya trong giai đoạn 2008-2012
thông qua mô hình OLS. Kết quả mô hình cho
biết, trong khi tăng trưởng kinh tế có tác động
tích cực đến ROA thì lạm phát và lãi suất lại có
tác động tiêu cực. Tác giả El-Maksoud (2016)
đã kiểm tra tác động của tất cả các yếu tố môi
trường bên ngoài đến hoạt động của các tổ
chức TCVM ở khu vực MENA trong giai đoạn
2004-2011. Trong các biến kinh tế vĩ mô, tác
giả cũng đề cập tới biến tăng trưởng kinh tế
và lạm phát. Tác giả cũng sử dụng qui mô và
tuổi của tổ chức làm biến kiểm soát. Với mô
hình hồi qui dữ liệu bảng hiệu ứng ngẫu nhiên,
nghiên cứu chỉ ra rằng, không có mối quan hệ
có ý nghĩa thống kê giữa tăng trưởng kinh tế
với hoạt động của các tổ chức TCVM. Ngoài ra,
tác giả cũng không tìm thấy tác động đáng kể
của lạm phát tới hoạt động của tổ chức TCVM,
ngoài tác động tiêu cực tới tỷ lệ dư nợ rủi ro
trên 30 ngày (Par 30).
Nghiên cứu đề xuất mô hình tổng quát đánh giá
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
ảnh hưởng của nhân tố môi trường kinh tế vĩ
mô tới mức độ tự vững của các tổ chức TCVM
chính thức như sau:
Y
i,t
= β
0
+ β
1
X1
i,t
+ β
2
X2
i,t
+ β
3
X3
i,t
+ τi
Trong đó:
Y
i,t
là véc tơ biến phụ thuộc phản ánh mức độ
tự vững của tổ chức TCVMi. Trong nghiên cứu
này, tác giả sử dụng biến OSS, ROA và ROE để
phản ánh độ tự vững của tổ chức TCVM chính
thức (Millson, 2013).
X1 là biến độc lập phản ánh tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
X2 là biến độc lập phản ánh tỷ lệ lạm phát theo
CPI.
X3 là biến kiểm soát phản ánh qui mô của tổ
chức TCVM.
τi là sai số thống kê.
Cụ thể về các biến phụ thuộc và độc lập trong
mô hình được mô tả trong Bảng 1.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Mô tả dữ liệu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu được
thu thập trong thời gian 10 năm (2008-2017) từ
4 tổ chức TCVM chính thức được NHNN cấp
Bảng 1. Mô tả các biến được sử dụng trong mô hình
Tên biến Công thức/Giải thích Ký hiệu trong
mô hình
Tác động
kỳ vọng
Nguồn số
liệu
Biến phụ thuộc
Tự vững hoạt
động
Thu nhập từ hoạt động/(Chi phí hoạt động + chi phí
tài chính + chi phí dự phòng rủi ro) × 100%
OSS The Mix &
VMFWG
Tỷ suất sinh
lời trên tài sản
(Thu nhập ròng - thuế)/Tài sản bình quân × 100% ROA The Mix &
VMFWG
Tỷ suất sinh
lời trên vốn
chủ sở hữu
(Thu nhập ròng - thuế)/Vốn chủ sở hữu bình quân
× 100%
ROE The Mix
&VMFWG
Biến độc lập
Tăng trưởng
kinh tế
GDP - ADB
Tỷ lệ lạm phát ifl + ADB
Biến kiểm soát
Tổng tài sản Log_size + The Mix &
VMFWG
phép, gồm TYM, M7MFI, Thanh Hóa MFI và
CEP. Thống kê mô tả các biến được trình bày
trong Bảng 2.
Các tổ chức TCVM chính thức đều đảm bảo
trang trải chi phí hoạt động từ nguồn thu hoạt
động và đạt độ tự vững trong dài hạn với chỉ số
tự vững hoạt động trung bình của một tổ chức
TCVM chính thức đạt 138%. Tuy nhiên, mức
độ tự vững hoạt động có sự khác biệt khá lớn,
tổ chức đạt mức độ tự vững cao nhất là 196%,
trong khi thấp nhất là 100%. Theo khả năng
sinh lời, các tổ chức TCVM chính thức đều có
chỉ số ROA và ROE bình quân cao hơn so với
chuẩn quốc tế, trong đó ROA trung bình gần
5% và ROE trung bình đạt 19%. Mức độ tự
vững theo ROA và ROE cũng có sự khác biệt
khá lớn giữa các tổ chức, tổ chức có ROA và
ROE lớn nhất đạt 13% và 40,5%; trong khi đó
tổ chức có ROA và ROE thấp nhất lần lượt là
2,9% và 8,2%.
Trong giai đoạn 2008-2017, tăng trưởng kinh
tế bình quân đạt 6% và tỷ lệ lạm phát bình
quân 8,5%. Trong khi mức độ biến thiên của
tăng trưởng kinh tế không lớn, với tốc độ tăng
trưởng cao nhất đạt 6,8% và thấp nhất đạt
5,25% thì tỷ lệ lạm phát có mức độ biến thiên
khá lớn, với giá trị cao nhất là 23,12% và thấp
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
73Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
nhất là 0,88%. Điều này chứng tỏ, đây là giai
đoạn có sự biến động lớn về lạm phát.
Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến
(Bảng 3) cho biết các biến độc lập có tương
quan khá chặt chẽ với biến phụ thuộc. Cụ thể,
trong khi biến tăng trưởng kinh tế tương quan
âm với mức độ tự vững thì tỷ lệ lạm phát tương
quan dương. Ngoài ra, biến qui mô của tổ chức
có tương quan tích cực với mức độ tự vững của
tổ chức.
3.2. Kết quả và thảo luận
Trên cơ sở số liệu dữ liệu bảng, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng Hausman test để
kiểm tra độ tin cậy của mô hình. Nhóm
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến được sử dụng trong mô hình
Variable Số quan sát Mean Std. Dev. Min Max
OSS 40 138,2088 24,50185 100 196
ROA 40 4,9865 2,863793 0,4 13
ROE 40 19,111 8,192325 3,33 40,52
Tăng trưởng kinh tế 40 6,007 0,5331098 5,25 6,81
Lạm phát 40 8,51 6,822168 0,88 23,12
Tổng tài sản 40 12,49589 1,434375 9,81214 14,99859
Nguồn: Dữ liệu của TYM, M7MFI, Thanh Hóa MFI và CEP, trong 10 năm (2008-2017); Kết quả thu được từ
xử lý dữ liệu qua Phần mềm Stata.
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến
OSS ROA ROE Tăng trưởng kinh tế Lạm phát Tổng Tài sản
OSS 1
ROA 0,7664 1
ROE 0,3522 0,6095 1
Tăng trưởng kinh tế -0,2983 -0,4689 -0,2077 1
Lạm phát 0,4425 0,4335 0,1448 -0,3127 1
Tổng tài sản 0,1293 0,1983 0,2487 0,266 -0,3688 1
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua Phần mềm Stata
Bảng 4. Tổng hợp kết quả mô hình
OSS ROA ROE
Mô hình có biến phụ thuộc
Tăng trưởng kinh tế -10,90075 -2,483692*** -4,22217*
Lạm phát 1,81821*** 0,200558*** 0,2676557
Tổng tài sản 6,468105** 0,9953917*** 2,324618**
Hằng số 107,4468** 5,741894 12,99687
Kiểm định Hausman P = 0.3199 P = 0.6873 P = 0.9308
Mô hình Hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) Hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) Hiệu ứng ngẫu nhiên (RE)
Nguồn: Kết quả thu được từ xử lý dữ liệu qua Phần mềm Stata
Ghi chú bảng: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
nghiên cứu nhận thấy mô hình hồi quy dữ
liệu bảng hiệu ứng ngẫu nhiên (Random
Effect) phù hợp hơn mô hình hiệu ứng
cố định (Fixed Effect). Các kiểm định về
khuyết tật cho thấy mô hình là hoàn toàn
đáng tin cậy. Kết quả được thể hiện trong
Bảng 4.
Thứ nhất, kết quả thu được từ mô hình dữ liệu
theo bảng đưa ra một kết quả rất thú vị, đó là
khi kinh tế tăng trưởng thì độ tự vững bao gồm
cả tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và trên vốn
tự có của tổ chức TCVM lại bị giảm xuống. Cụ
thể, tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1% thì ROA
giảm 2,484% (tại mức ý nghĩa 1%) và ROE
giảm 4,222% (tại mức ý nghĩa 10%). Tỷ lệ OSS
giảm nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết
quả này hoàn toàn phù hợp với kỳ vọng của mô
hình và nghiên cứu của Njuguna (2013). Kết
quả này được lý giải bởi, trong điều kiện tăng
trưởng kinh tế, thu nhập của các chủ thể trong
nền kinh tế tăng, họ có thể tự tài trợ thông qua
tiết kiệm hoặc tiếp cận với khu vực tài chính
chính thức do đó mà nhu cầu sử dụng dịch vụ
TCVM giảm. Đến lượt nó sẽ có thể làm cho
doanh thu và lợi nhuận của tổ chức TCVM bị
giảm xuống, hoặc không đạt được như kì vọng.
Thứ hai, kết quả mô hình dữ liệu bảng với mô
hình hiệu ứng ngẫu nhiên cho biết khi tỷ lệ
lạm phát tăng thì mức độ tự vững cũng như tỷ
lệ lợi nhuận trên tổng tài sản của các tổ chức
TCVM được cải thiện. Cụ thể, khi tỷ lệ lạm
phát tăng thêm 1% thì tự vững hoạt động tăng
thêm 1,82% và ROA tăng thêm 0,2% (tại mức
ý nghĩa 5%). Kết quả này ngược lại với nghiên
cứu của các tác giả Vanroose & cộng sự (2009)
và Njuguna (2013). Tuy nhiên, kết quả này có
thể lý giải bởi, lạm phát ảnh hưởng đến người
giàu ít hơn người nghèo bởi người giàu nắm giữ
nhiều tài sản hơn, có thu nhập cao hơn và do đó
họ có thể điều chỉnh theo sự tăng giá. Trong khi
đó, người nghèo với mức thu nhập thấp, hơn
nữa phần lớn thu nhập được dùng cho tiêu dùng
những hàng hóa thiết yếu, nên họ gặp khó khăn
khi giá cả tăng. Vì vậy, nhu cầu dịch vụ TCVM
tăng và đây được coi là yếu tố tích cực tác động
đến độ tự vững của tổ chức TCVM.
Ngoài ra, kết quả mô hình còn cho thấy tác
động tích cực của qui mô đến mức độ tự vững
của tổ chức TCVM chính thức ở cả 3 chỉ số.
Cụ thể, khi log của tổng tài sản tăng thêm 1 thì
chỉ số OSS tăng thêm 6,47% (tại mức ý nghĩa
5%), ROA tăng thêm 0,995% (tại mức ý nghĩa
1%) và ROE tăng thêm 2,32% (tại mức ý nghĩa
5%). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kỳ
vọng của mô hình và nghiên cứu của các tác
giả Vanroose & cộng sự (2009), El-Maksoud
(2016); và được lý giải bởi lý thuyết tính kinh
tế về qui mô. Theo đó, khi qui mô ngày càng
lớn thì chi phí hoạt động giảm và vì vậy lợi
nhuận tăng. Điều này hàm ý rằng, để cải thiện
mức độ tự vững, các tổ chức TCVM chính thức
cần gia tăng tổng tài sản.
4. Kết luận và khuyến nghị chính sách
Với kết quả ở trên, nghiên cứu kết luận rằng,
yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đáng kể và có ý
nghĩa thống kê đến mức độ tự vững của tổ chức
TCVM. Trong khi tăng trưởng kinh tế tác động
tiêu cực đến mức độ tự vững thì tỷ lệ lạm phát
lại có tác động tích cực. Điều này hàm ý rằng,
các tổ chức TCVM có thể mở rộng hoạt động,
tăng lợi nhuận tại các nền kinh tế kém hoặc
đang phát triển khi mà khả năng tiếp cận các
dịch vụ tài chính chính thức là khá khó khăn.
Vì vậy, khi nền kinh tế đạt đến một trình độ
phát triển và ổn định nhất định nào đó thì vai
trò lịch sử của các tổ chức TCVM sẽ giảm dần.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho biết, để cải thiện
độ tự vững, các tổ chức TCVM chính thức cần
tăng cường qui mô tài sản.
Để mở rộng qui mô tài sản nhằm cải thiện độ tự
vững của các tổ chức TCVM chính thức, tác giả
đề xuất một số khuyến nghị sau:
Một là, rà soát và hoàn thiện các qui định pháp
lý điều chỉnh hoạt động của các tổ chức TCVM
chính thức, trong đó tập trung vào qui định về
hình thức pháp lý và qui định về hoạt động. Để
tạo điều kiện cho tổ chức TCVM chính thức mở
rộng qui mô tổng tài sản thì nên đa dạng hóa hình
thức pháp lý theo hướng cho phép các tổ chức
TCVM chính thức được lựa chọn theo mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ