Đối với những nước đang phát triển, cán cân thương mại bị thâm hụt là điều khó tránh
khỏi, nhưng thâm hụt trong thời gian dài thì cần phải nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và có
giải pháp thích hợp để giảm dần thâm hụt. Bài viết ngắn này trước hết đánh giá các chiều
hướng của tình trạng nhập siêu, bắt đầu từ 8 tháng đầu năm 2010 và các năm trước đó,
bởi vì nhập siêu là vấn đề dài hạn và việc xem xét chúng cần phải nghiên cứu trong thời
gian dài. Tiếp đến là việc đánh giá những rủi ro, ảnh hưởng mà nhập siêu gây nên cho nền
kinh tế. Cuối cùng là một số giải pháp giảm nhập siêu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 630 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhập siêu: Thực trạng và một số giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011 
 137 
NHẬP SIÊU: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 
 NGUYỄN ĐÌNH LUẬN (*) 
TÓM TẮT 
Đối với những nước đang phát triển, cán cân thương mại bị thâm hụt là điều khó tránh 
khỏi, nhưng thâm hụt trong thời gian dài thì cần phải nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và có 
giải pháp thích hợp để giảm dần thâm hụt. Bài viết ngắn này trước hết đánh giá các chiều 
hướng của tình trạng nhập siêu, bắt đầu từ 8 tháng đầu năm 2010 và các năm trước đó, 
bởi vì nhập siêu là vấn đề dài hạn và việc xem xét chúng cần phải nghiên cứu trong thời 
gian dài. Tiếp đến là việc đánh giá những rủi ro, ảnh hưởng mà nhập siêu gây nên cho nền 
kinh tế. Cuối cùng là một số giải pháp giảm nhập siêu. 
ABSTRACT 
Trade deficit is inevitable to developing countries. If this situation drags on, it is 
necessary to find out its cause and carry out good solutions to curb it. In this article, the 
writer first evaluates some changes in trade deficit, a persistent problem which will take a 
long time to study, in the two quarters of 2010 and previous years. Next, he will evaluate 
the risks and effects which trade deficit brings on the economy, and finally he will present 
some solutions to reduce trade deficit. 
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ 
NHẬP SIÊU (*) 
Để đánh giá tình hình thương mại của 
một quốc gia người ta sử dụng Cán cân 
thương mại. Cán cân thương mại còn được 
gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư hay 
thâm hụt. Khi cán cân thương mại có thặng 
dư, xuất khẩu ròng mang giá trị dương. 
Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất 
khẩu ròng mang giá trị âm. Lúc này còn 
gọi là thâm hụt thương mại (nhập siêu). 
NX = X – M 
Trong đó: NX(Net export) là xuất 
khẩu ròng hay cán cân thương mại; 
X(Export) là xuất khẩu; 
M(Import) là nhập khẩu. 
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân 
thương mại: 
Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi 
GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh 
hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP 
(*)
 TS, Trường Đại học Sài Gòn 
tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên-
MPZ. MPZ là phần của GDP có thêm mà 
người dân muốn chi cho nhập khẩu (Ví dụ, 
MPZ bằng 0,3 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có 
thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,3 
đồng cho nhập khẩu). Ngoài ra, nhập khẩu 
phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa 
sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại 
nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng 
tương đối so với giá thị trường quốc tế thì 
nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. 
Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào 
những gì đang diễn biến tại các quốc gia 
khác vì xuất khẩu của nước này chính là 
nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó phụ 
thuộc chủ yếu vào sản lượng và thu nhập của 
các quốc gia bạn hàng. Chính vì vậy trong 
các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất 
khẩu là yếu tố tự định. 
Tỉ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng 
đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá 
tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước 
 138 
với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỉ 
giá của đồng tiền của một quốc gia tăng 
lên thì giá cả của hàng hoá nhập khẩu sẽ 
trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất 
khẩu lại trở nên đắt hơn đối với người 
nước ngoài. Vì vậy việc tỉ giá đồng nội tệ 
tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và 
thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là 
xuất khẩu ròng giảm. 
2. TÌNH HÌNH NHẬP SIÊU CỦA 
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 
GẦN ĐÂY 
2.1 Nguyên nhân của nhập siêu 
Có một số nguyên nhân dẫn đến tình 
trạng nhập siêu (thâm hụt thương mại), 
bao gồm một số nguyên nhân cơ bản từ 
cơ cấu mà khi giải quyết là một quá trình 
đầy khó khăn và thách thức. Bao gồm: 
Một là, tăng trưởng kinh tế trong một 
thời kì dài dựa quá mức vào đầu tư, đặc 
biệt thông qua việc bơm vốn cho khối 
doanh nghiệp nhà nước trong khi “năng 
lực” xuất khẩu của khu vực này yếu kém 
còn “năng lực” nhập khẩu thì rất dồi dào. 
Thực trạng này được minh họa cụ thể hơn 
bằng việc thâm hụt cán cân thương mại 
và thâm hụt ngân sách trong 10 năm qua 
tương quan chặt chẽ với nhau. Hệ số 
tương quan giữa hai đại lượng này cho 
giai đoạn 2000-2009 là 0,86 (Con số này 
dương và càng gần 1 càng minh chứng 
một điều: cứ khi nào thâm hụt ngân sách 
lớn thì thâm hụt thương mại cũng có 
nhiều khả năng lớn và ngược lại khi nào 
thâm hụt ngân sách thu hẹp hoặc dương 
thì thâm hụt thương mại cũng có nhiều 
khả năng được thu hẹp hoặc dương 
(thặng dư)). 
Trong một thời kì dài Chính phủ đã 
liên tiếp nỗ lực mở rộng đầu tư thông qua 
chi tiêu ngân sách để kích thích tăng 
trưởng và do đó làm thâm hụt ngân sách 
ngày càng lớn. Đầu tư mở rộng cao hơn so 
với tiết kiệm của nền kinh tế cũng làm cho 
cán cân thương mại thâm hụt ngày càng lớn 
hơn do: đầu tư mở rộng sản xuất nhưng 
không mở rộng năng lực xuất khẩu dẫn đến 
việc tập trung quá mức vào thị trường nội 
địa. Đầu tư thường do các doanh nghiệp nhà 
nước thực hiện với năng lực cạnh tranh bên 
ngoài yếu kém nên năng lực “tạo ra ngoại tệ” 
cũng rất yếu mà lại còn nhập khẩu nhiều máy 
móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, bán 
thành phẩm để phục vụ sản xuất, do đó đã 
dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại nghiêm 
trọng trong một thời kì dài. Đây chính là 
thâm hụt kép, vừa mất cân bằng bên trong lại 
vừa mất cân bằng bên ngoài. Để giải quyết sự 
thâm hụt kép này đòi hỏi một chiến lược dài 
hạn nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao 
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt 
là việc tái cấu trúc và chỉnh đốn lại khu vực 
doanh nghiệp nhà nước. 
Hai là, doanh nghiệp nhà nước được bảo 
hộ trong thời gian dài buộc các doanh nghiệp 
khác trong nền kinh tế phải mua đầu vào sản 
xuất của họ từ các doanh nghiệp nhà nước 
với giá cao hơn và chất lượng thấp hơn, làm 
tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành, giảm 
chất lượng sản phẩm và giảm năng lực cạnh 
tranh trong thị trường quốc tế, từ đó mà dẫn 
đến giảm xuất khẩu. 
Ba là, xuất khẩu của nền kinh tế dựa quá 
mức vào nhập khẩu, như vậy xuất khẩu tăng 
luôn đi kèm với nhập khẩu tăng (đồng biến). 
Thực trạng này còn cho thấy một nguyên 
nhân sâu xa hơn, đó là việc nền kinh tế đang 
sở hữu một ngành công nghiệp phụ trợ ọp 
ẹp, không đủ năng lực đáp ứng cho hoạt 
động sản xuất xuất khẩu. 
Bốn là, trong những năm vừa qua, cuộc 
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế 
toàn cầu đã làm giá nhiều mặt hàng xuất 
khẩu của Việt Nam giảm mạnh. Cụ thể, chỉ 
 139 
số giá hàng hoá xuất khẩu quốc tế năm 
2009 giảm 19% (theo tỉ trọng xuất khẩu), 
trong đó nhiều mặt hàng chủ lực của Việt 
Nam giảm mạnh như dầu thô, lúa gạo, 
cao su, cà phê, than đá Trong khi giá 
nhiều mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam 
lại không giảm tương ứng. Kết quả là 
nhập siêu đã tăng đột biến kể từ năm 
2007 và đang tiếp tục cho năm 2010 cũng 
như cho năm 2011. 
2.2. Thực trạng nhập siêu của Việt 
Nam 
Nhập siêu đang trở thành vấn đề 
nghiêm trọng cho nền kinh tế bởi vì nó đã 
diễn ra trong một thời gian dài và từ năm 
2007 trở lại đây càng trở nên nghiêm 
trọng hơn. Nếu đặt chúng trong mối 
tương quan với tỉ lệ đầu tư cao nhằm thúc 
đẩy tăng trưởng, với các doanh nghiệp 
nhà nước, với những bất ổn vĩ mô, và với 
mô hình xuất khẩu dựa vào nhập khẩu thì 
chúng ta có thể nhìn rõ những rủi ro mà 
nó đem lại và những nguyên nhân của 
tình trạng nhập siêu để từ đó đề ra chiến 
lược giảm nhập siêu hiệu quả. 
Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, 
trong 8 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu của 
nền kinh tế nước ta đạt 43,4 tỉ$, nhập khẩu 
đạt 52 tỉ $ và nhập siêu là 8,6 tỉ $, tăng 
34,4% so với cùng kì năm 2009. Con số 
nhập siêu này cao hơn nhiều so với các năm 
trước đó và chỉ thấp hơn so với năm 2008 
(năm đạt mức thâm hụt kỉ lục trong vòng 20 
năm qua kể từ sau đổi mới). Thâm hụt 
thương mại qua các tháng của năm 2010 có 
xu hướng giảm nhưng chưa rõ rệt và nhiều 
trở ngại cho thấy mục tiêu kiềm chế nhập 
siêu ở mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu 
là rất khó đạt được (đồ thị 1, 2). Trong 2 năm 
2008 và 2009 tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu cao 
hơn 20% và tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu năm 
2007 cũng xấp xỉ 20%. So sánh tỉ lệ này cho 
8 tháng đầu năm 2010 cao hơn so với các 
năm trước đó (trừ năm 2008), và với các 
tháng cuối năm còn lại, tốc độ giải ngân tăng 
cao, hoạt động sản xuất những ngày giáp Tết 
sôi động thì nhập khẩu sẽ còn tăng hơn nữa 
và việc kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 20% 
kim ngạch nhập khẩu là nhiệm vụ rất khó 
khăn (Bảng 1, 2 một số mặt hàng xuất, nhập 
khẩu chủ yếu). 
Đồ thị 1. Tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu (%) từ 2004-2010 
Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu cho năm 2010 (chỉ tính 8 tháng đầu năm) 
 140 
Đồ thị 2. Tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu (%) 8 tháng đầu năm từ năm 2004-2010 
Nguồn: Tổng cục Thống kê. 
Bảng 1. Một số mặt hàng xuất khẩu chính 
Mặt hàng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 
Than (1.000tấn) 3251 4292 6047 7262 11636 17987 29307 32535 19355 24992 13192 
Gạo (1.000tấn) 3477 3721 3236 3810 4063 5250 4643 4500 4742 5985 5017 
Dầu thô (1.000tấn) 15424 16732 16876 17143 19501 17967 16419 15081 13725 13373 5493 
Cà phê (1.000tấn) 734 931 722 749 976 892 981 1194 1060 1184 835 
Hạt tiêu (1.000tấn) 36 57 78 74 111 109 117 86 90 134 94 
Cao su (1.000tấn) 273 308 455 432 513 578 708 719 658 731 427 
Hạt điều (1000tấn) 34 44 62 82 105 109 127 153 165 177 120 
Chè (1.000tấn) 56 68 77 59 104 88 106 114 104 134 85 
Giáy dép (triệu$) 1472 1578 1875 261 2691 3040 3592 3963 4768 4067 3221 
Hàng dệt may (tr$) 1892 1975 2732 3609 4430 4838 5834 7784 9120 9066 6895 
Thủy sản (triệu$) 1479 1816 2022 2200 2408 2739 3358 3792 4510 4251 2918 
Điện tử, máy tính 
(tr$) 
789 709 605 855 1062 1427 1708 2178 2638 2763 2177 
 Bảng 2. Một số mặt hàng nhập khẩu chính 
Mặt hàng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 
Máy móc thiết bị 
(triệu$) 
2572 2706 3790 5409 5249 5282 6630 10376 13994 12673 8548 
Xăng dầu (1000tấn) 8447 9083 9971 9936 11048 11477 11213 12554 12964 12706 7023 
Nguyên phụ liệu cho 
dệtmay,da (triệu$) 
1422 1590 1711 2034 2253 2281 1952 2187 2355 1932 1685 
Sắt thép (1000tấn) 2485 3870 4946 4623 5186 5525 5707 7705 8264 9749 5328 
Phân bón (1000tấn) 3971 3288 3820 4135 4078 2877 3119 3793 3035 4519 1945 
Tân dược (triệu$) 325 328,6 349,7 399,7 410 502,1 548 700 864 1097 828 
Chất dẻo (triệu$) 530,6 551 613,5 829 1190,9 1455,7 1866 2506 3714 3954 2400 
Sợi dệt (1000tấn) 237,3 228,4 272,7 317,5 338,8 339,6 341 425 414 495 354 
Vải (triệu$) 761 880 1523 1805 2067 2474 2985 3989 4434 4224 3416 
Ô tô nguyên chiếc (chiếc) 16362 28269 29355 21355 22560 17346 50400 76300 1817 
Nguồn bảng 1 và 2: Tổng cục thống kê (2005), Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, 
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, Nhà 
xuất bản Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Đức Thành (2010), Lựa chọn để tăng trưởng bền 
 141 
vững, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. Và từ trang Web của Tổng cục Thống kê cho số liệu 
8 tháng đầu của năm 2010 (www.gso.gov.vn). 
Tuy nhiên, nhập siêu là vấn đề của 
dài hạn, nó đã diễn ra trong một thời gian 
dài vì thế không thể chỉ căn cứ vào năm 
2010 để giải thích tại sao nhập siêu lại 
đang gia tăng nhanh và mạnh mà chúng 
ta cần có cái nhìn dài hơn để tìm ra 
nguyên nhân cơ bản của vấn đề, để từ đó 
đề ra các giải pháp hữu hiệu có tính 
thuyết phục cao. 
Trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt kể 
từ năm 2007, sau khi Việt Nam trở thành 
thành viên chính thức của WTO, thâm 
hụt thương mại gia tăng đột biến và đang 
trở thành nguy cơ gây nên bất ổn nghiêm 
trọng và rủi ro cao cho nền kinh tế. Năm 
2006 thâm hụt 44.000 tỉ đồng thì năm 
2007 tăng tới 181.000 tỉ đồng và vẫn tiếp 
tục giữ nguyên đà thâm hụt cao như thế 
cho hai năm tiếp theo. Cụ thể: 
Phân theo khu vực, thâm hụt ngân 
sách khu vực FDI nhỏ hơn nhiều so với 
khu vực kinh tế trong nước. Mặc dù có 
nhiều ý kiến về tình trạng nhập siêu của 
khu vực FDI, và khu vực FDI bị đổ lỗi đã 
gây ra thâm hụt cán cân thương mại 
nghiêm trọng, nhưng những lo lắng và ca 
thán đó là không có bằng chứng. Ngược 
lại, qua số liệu cho thấy một thực trạng 
khu vực kinh tế trong nước mới là thủ 
phạm chính gây ra tình trạng nhập siêu 
cho nền kinh tế. Nếu tính cả đến xuất 
khẩu thô ở khu vực FDI thì thâm hụt ở 
khu vực này trong giai đoạn 2006-2009 
chỉ chiếm 10% thâm hụt của cả nền kinh 
tế. Mặt khác, các doanh nghiệp FDI đã và 
đang tham gia xuất khẩu hầu hết các các 
mặt hàng chủ lực và chiếm tỉ trọng cao 
trong xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp 
chế biến như túi xách, va li, nón, hàng dệt 
may, giày dép, điện tử, máy tính Cho dù 
còn nhiều vấn đề trong khu vực FDI nhưng 
cũng không thể quên những đóng góp quan 
trọng của khu vực này cho nền kinh tế. 
Phân theo ngành, khu vực nông – lâm – 
thuỷ sản luôn xuất siêu còn khu vực công 
nghiệp, xây dựng và dịch vụ luôn nhập siêu. 
Nông nghiệp vẫn đang tiếp tục tạo ngoại tệ 
ròng cho nền kinh tế và số ngoại tệ này đang 
được sử dụng để phục vụ hoạt động sản xuất 
và phát triển của các ngành công nghiệp, xây 
dựng và dịch vụ. Việt Nam vẫn là một nền 
kinh tế dựa vào nông nghiệp, phát triển nhờ 
nông nghiệp và ổn định cũng từ nông 
nghiệp. 
Phân theo mặt hàng xuất, nhập khẩu, kể 
từ khi đổi mới đến nay, các mặt hàng xuất 
khẩu chủ yếu vẫn là than, dầu thô, gạo, hạt 
tiêu, cà phê, hạt điều, giày dép, hàng điện tử, 
hàng dệt may, thủy sản Các mặt hàng 
nhập khẩu chủ yếu là máy móc, trang thiết bị 
và các nguyên vật liệu phục vụ như phân 
bón, tân dược, xăng dầu, sợi dệt Nhập 
khẩu hàng tiêu dùng chỉ chiếm một tỉ trọng 
nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu. 
Phân theo khu vực có quan hệ thương 
mại với Việt Nam, trong 3 năm từ 2007-
2009, Việt Nam xuất siêu sang Mĩ và EU 
nhưng ngược lại nhập siêu rất cao từ các 
nước ASEAN và Trung Quốc. Còn với Nhật 
Bản, cán cân thương mại có năm thặng dư và 
có năm thâm hụt nhưng thấp. 
Như vậy, qua nghiên cứu cơ cấu hàng 
hóa xuất, nhập khẩu của nền kinh tế Việt 
Nam chúng ta có thể rút ra nhận xét: 
Chúng ta chủ yếu nhập khẩu máy móc, 
trang thiết bị và công nghệ sản xuất từ hai 
khu vực là Trung Quốc và ASEAN có công 
nghệ lạc hậu hơn so với Mĩ, EU, Nhật Bản. 
 142 
Như vậy, công nghệ tiên tiến có khả năng 
tăng năng suất lao động cao nhập khẩu từ 
hai nền kinh tế Trung Quốc và ASEAN là 
không có nhiều triển vọng. Một nền kinh 
tế muốn cất cánh hoặc nhanh chóng rút 
ngắn khoảng cách với các nước phát triển 
không những đòi hỏi phải cần chiến lược 
xuất khẩu mà còn đòi hỏi phải có cả 
chiến lược nhập khẩu. 
2.3. Ảnh hưởng của việc nhập siêu 
trong tiến trình phát triển kinh tế ở 
Việt Nam 
Có nhiều rủi ro hay ảnh hưởng sinh 
ra từ việc nền kinh tế nhập siêu trong một 
thời gian dài mà đặc biệt khi tình trạng 
nhập siêu trở nên nghiêm trọng hơn kể từ 
năm 2007 cụ thể: 
Một là, thâm hụt ngân sách lâu dài và 
tăng nhanh làm cạn nguồn dự trữ ngoại 
hối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và 
do đó làm giảm năng lực can thiệp của 
NHNN vào thị trường ngoại hối nhằm đạt 
mục tiêu đề ra. Mặt khác, nó còn tăng 
tích luỹ nợ của nền kinh tế với bên ngoài 
và đưa nền kinh tế gần hơn với trạng thái 
khủng hoảng nợ và tiến xa hơn trạng thái 
bền vững nợ. 
Hai là, bằng chứng từ nhiều cuộc 
khủng hoảng tiền tệ cho thấy một nền 
kinh tế có cơ chế tỉ giá hối đoái cố định 
cùng với thâm hụt cán cân thương mại 
lớn có nguy cơ trở thành đối tượng của 
các nhà đầu cơ, cộng với nguồn dự trữ 
ngoại hối ít ỏi sẽ dẫn đến cuộc khủng 
hoảng tiền tệ (bằng chứng rõ nhất cho 
thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 
năm 2007). 
Ba là, thâm hụt ngân sách trong thời 
gian dài và nhập siêu đang gia tăng nhanh 
đã đặt thị trường ngoại tệ trong trạng thái 
bất ổn vì thị trường đặt kì vọng vào việc 
phá giá đồng nội tệ khi thông tin về 
nguồn dự trữ ngoại hối mập mờ và năng lực 
can thiệp thành công của NHNN vào thị 
trường ngoại hối bị nghi ngờ. Ảnh hưởng 
cuối cùng liên quan đến tính độc lập của 
chính sách tiền tệ, đó là chính sách tiền tệ 
không còn được độc lập để theo đuổi các 
mục tiêu vĩ mô khác khi luôn phải tập trung 
giữ tỉ giá hối đoái theo mục tiêu đã định 
trước. 
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM 
THIỂU LẠM PHÁT ĐỐI VỚI NỀN 
KINH TẾ VIỆT NAM 
Từ sự phân tích và đưa ra những nguyên 
nhân gây nên tình trạng nhập siêu trong 
những năm qua, tác giả đề xuất một số giải 
pháp giảm nhập siêu trong những năm tới, 
bao gồm: 
Thứ nhất, giảm đầu tư cho các doanh 
nghiệp nhà nước, thúc đẩy nhanh hơn nữa 
quá trình cổ phần hóa và để cho các doanh 
nghiệp nhà nước hoạt động trên nguyên tắc 
kinh tế thị trường, nghĩa là phải được ứng xử 
bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các 
thành phần kinh tế khác. 
Thứ hai, giảm bảo hộ và ưu đãi cho các 
doanh nghiệp nhà nước và cho các mặt hàng 
chiến lược. Chính sách bảo hộ hiện nay có 
sự đánh đổi lớn, các doanh nghiệp nhà nước 
hoặc các doanh nghiệp sản xuất những mặt 
hàng được bảo hộ sẽ được lợi còn các doanh 
nghiệp sử dụng sản phẩm của chúng làm đầu 
vào cho quá trình sản xuất của mình thì chịu 
nhiều thiệt thòi vì chi phí sản xuất cao làm 
giá thành sản xuất đội lên, chất lượng sản 
phẩm sản xuất cũng kém làm năng lực cạnh 
tranh bị giảm dẫn đến năng lực cạnh tranh 
cho tổng thể nền kinh tế yếu kém. 
Thứ ba, phát triển ngành công nghiệp 
phụ trợ với một chiến lược rõ ràng, toàn diện 
và cụ thể; có lộ trình và mục tiêu thích hợp 
để có thể kiểm tra, kiểm soát được bước đi; 
có tính đến những ràng buộc nguồn lực để 
 143 
theo đuổi các mục tiêu. 
Thứ tư, phát triển cơ sở hạ tầng, 
nguồn nhân lực và đẩy nhanh, mạnh cải 
cách hành chính như đã và đang thực 
hiện. 
Thứ năm, cơ chế tỉ giá linh hoạt hơn 
nữa nhằm hạn chế rủi ro từ cuộc đầu cơ 
tiền tệ do vấn đề nhập siêu, vấn đề cạn 
kiệt nguồn dự trữ ngoại hối đặt ra. 
4. KẾT LUẬN 
Vấn đề nhập siêu không thể giải 
quyết được trong một thời gian ngắn mà 
phải có thời gian, có giải pháp và bước đi 
cụ thể. Do vậy, không nên đặt kì vọng 
quá lớn vào việc giảm nhập siêu trong năm 
2011 và những năm tiếp theo. Mọi biện pháp 
cấp tốc giảm nhanh nhập siêu (thâm hụt 
thương mại) sẽ gây nên những rủi ro và 
không hiệu quả trong trung hạn và dài hạn. 
Triển vọng tốt nhất được mong đợi không 
chỉ là thu hẹp dần thâm hụt thương mại mà 
còn mong chờ một chiến lược làm thu hẹp 
dần thâm hụt ngân sách. Chiến lược vừa làm 
giảm thâm hụt thương mại vừa làm giảm 
thâm hụt ngân sách đòi hỏi phải có mục tiêu 
tổng thể, mục tiêu cụ thể và định lượng cho 
từng giai đoạn và các biện pháp khả thi cần 
có để đạt được các mục tiêu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bi Trường Giang, Thương mại Việt Nam năm 2010 và vấn đề nhập siêu, tài liệu Hội 
thảo Quốc gia, tháng 9/2010. 
2. Tổng cục thống kê, Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội. 
Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, NXB Thống kê, Hà Nội. 
3. Nguyễn Đức Thành, Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, NXB Tri thức, Hà Nội 2010. 
4. Nguyễn Đình Luận, Kinh tế vĩ mô, Giáo trình giảng dạy, Đại học Sài Gòn, năm 2010.