Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM), đã và đang đối mặt với thực trạng sạt lở tại một số khu
vực, đặt ra một số yêu cầu về việc triển khai xây dựng các tuyến đê bao kết hợp các mục tiêu cải tạo
các sông ngòi, kênh rạch chính trong đô thị. Bên cạnh đó, ngập lụt lại nổi lên như một vấn đề lớn hơn
ảnh hưởng đến toàn đô thị trong những năm gần đây khi các tác động của quá trình đô thị hóa và biến
đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp. Mặc dù đã có nhiều đề xuất với quan điểm tiếp cận tích hợp
trong vấn đề ứng phó với các thực trạng trên, giải pháp chính đã được đầu tư xây dựng trong thời gian
vừa qua vẫn chủ yếu dựa trên quan điểm “chống chọi” với các mục tiêu riêng lẻ theo từng dự án, cho
các công trình hạ tầng kỹ thuật như đê bao, bờ kè, cống ngăn triều. Những giải pháp này đã phần nào
giúp khắc phục những khó khăn trong giai đoạn ngắn, nhưng được đánh giá thiếu tính bền vững trước
những biến động khó lường của biến đổi khí hậu, và có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn khu
vực. Sự phụ thuộc vào các hệ thống này có thể làm tăng tính chủ quan của cả chính quyền và người
dân, và góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh hơn, dẫn đến thiếu cẩn trọng đối với những bất
lợi của môi trường tự nhiên và bất chấp những rủi ro thiên tai trong quá trình phát triển và mở rộng đô
thị. Do đó, bài viết này dựa trên phương pháp sử dụng các trường hợp nghiên cứu đã được tổng hợp
và công bố về vấn đề ngập tại Tp. HCM có liên hệ đến thảm họa ngập lụt đã xảy ra tại một số đô thị
gần biển (New Orleans, Manila và Bangkok), đồng thời tham khảo một số quan điểm của chuyên gia
thông qua trường hợp nghiên cứu tại Birmingham (Vương Quốc Anh) nhằm nêu ra một số bài học
kinh nghiệm có thể hữu ích cho chính quyền thành phố trong việc cân nhắc chọn lựa những giải pháp,
và mức độ đầu tư phù hợp trong tương lai.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 615 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những ảnh hưởng của giải pháp bờ kè đối với vấn đề ngập trong đô thị: Bài học kinh nghiệm cho Tp.Hcm từ thất bại của các hệ thống bảo vệ tại một số đô thị trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA GIẢI PHÁP BỜ KÈ
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NGẬP TRONG ĐÔ THỊ:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TP.HCM TỪ
THẤT BẠI CỦA CÁC HỆ THỐNG BẢO VỆ TẠI
MỘT SỐ ĐÔ THỊ TRÊN THẾ GIỚI
Phan Nhựt Duy, David Proverbs
(1) Tiến sĩ Nghiên cứu Vùng và Đô thị, Giảng viên, Khoa Quy hoạch,
trường Đại học Kiến trúc Tp. Hồ Chí Minh
(2) Giáo sư về Quản lý Xây dựng, Phó trưởng khoa, Khoa Môi trường
Xây dựng và Kỹ thuật Máy tính, Trường Đại học Birmingham City
University
* Tác giả chính (duy.phannhut@uah.edu.vn; duyadm@gmail.com)
Tóm lược
Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM), đã và đang đối mặt với thực trạng sạt lở tại một số khu
vực, đặt ra một số yêu cầu về việc triển khai xây dựng các tuyến đê bao kết hợp các mục tiêu cải tạo
các sông ngòi, kênh rạch chính trong đô thị. Bên cạnh đó, ngập lụt lại nổi lên như một vấn đề lớn hơn
ảnh hưởng đến toàn đô thị trong những năm gần đây khi các tác động của quá trình đô thị hóa và biến
đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp. Mặc dù đã có nhiều đề xuất với quan điểm tiếp cận tích hợp
trong vấn đề ứng phó với các thực trạng trên, giải pháp chính đã được đầu tư xây dựng trong thời gian
vừa qua vẫn chủ yếu dựa trên quan điểm “chống chọi” với các mục tiêu riêng lẻ theo từng dự án, cho
các công trình hạ tầng kỹ thuật như đê bao, bờ kè, cống ngăn triều... Những giải pháp này đã phần nào
giúp khắc phục những khó khăn trong giai đoạn ngắn, nhưng được đánh giá thiếu tính bền vững trước
những biến động khó lường của biến đổi khí hậu, và có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn khu
vực. Sự phụ thuộc vào các hệ thống này có thể làm tăng tính chủ quan của cả chính quyền và người
dân, và góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh hơn, dẫn đến thiếu cẩn trọng đối với những bất
lợi của môi trường tự nhiên và bất chấp những rủi ro thiên tai trong quá trình phát triển và mở rộng đô
thị. Do đó, bài viết này dựa trên phương pháp sử dụng các trường hợp nghiên cứu đã được tổng hợp
và công bố về vấn đề ngập tại Tp. HCM có liên hệ đến thảm họa ngập lụt đã xảy ra tại một số đô thị
gần biển (New Orleans, Manila và Bangkok), đồng thời tham khảo một số quan điểm của chuyên gia
thông qua trường hợp nghiên cứu tại Birmingham (Vương Quốc Anh) nhằm nêu ra một số bài học
kinh nghiệm có thể hữu ích cho chính quyền thành phố trong việc cân nhắc chọn lựa những giải pháp,
và mức độ đầu tư phù hợp trong tương lai.
Từ khóa: bờ kè, đê bao, hiểm họa ngập lụt
212
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
Bối cảnh chung: ngập lụt vẫn là mối đe dọa lớn và có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn
đối với sự phát triển ổn định của đô thị lớn
Ngập lụt đã và đang trở thành mối đe dọa
đối với nhiều quốc gia trên thế giới, là nguyên
nhân gây ra thiệt hại 539.811 sinh mạng, và ảnh
hưởng khoảng 2,8 tỷ người trong vòng 30 năm
(1980 – 2009) (Doocy et al., 2013). Thống kê
của Guha-Sapir et al. (2016) trong 45 năm (1970
– 2014) cho thấy, các biến cố ngập càng diễn ra
với tần suất ngày càng cao so với các thảm họa
khác như động đất, núi lửa, và đặc biệt tác
động đến nhiều khu vực gần biển ở Châu Á (xem
hình 1). Đối với các đô thị lớn gần biển ở Đông
Nam Á, vấn đề này càng trở nên cấp bách với
những hệ quả kết hợp của quá trình đô thị hóa
(ĐTH) và biến đổi khí hậu (BĐKH) trong khi các
hệ thống bảo vệ ngày càng thể hiện sự yếu kèm
trước các yếu tố khó lường của thiên nhiên (Duy
et al, 2017b). Thêm vào đó, sự xuất hiện các
công trình xây dựng, trong đó có các công trình
hạ tầng kỹ thuật đô thị có thể tạo những nguy cơ
tiềm ẩn, đe dọa sự phát triển ổn định và bền vững
đối với toàn đô thị. Phân tích mối quan hệ này,
Cigler (2007) cho rằng sự tác động không phù
hợp của môi trường xây dựng đến môi trường tự
nhiên sẽ làm gia tăng nguy cơ ngập. Thực trạng
này đã và đang diễn ra tại rất nhiều đô thị lớn tại
các nước đang phát triển, đặc biệt ở khu vực
Đông Nam Á.
Thành phố Hồ Chí Minh: nguy cơ ảnh
hưởng của giải pháp bờ kè đến thực trạng
ngập trong đô thị
Thành phố Hồ Chí Minh, một đô thị cực
lớn – gần biển với dân số tăng nhanh (VD: từ 3,5
triệu năm 1976 lên gần 10 triệu năm 2018:
GSOV, 2015) đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của Việt Nam. Quá trình phát triển và đô
thị hóa nhanh đã khiến đô thị ngày càng “xa rời”
các đặc điểm của tự nhiên, vốn được hình thành
trên lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai, chịu ảnh
hưởng bởi chế độ bán nhật triều từ mạng lưới
sông ngòi, kênh rạch dày đặc “trong lòng đô thị”
nhất là tại khu vực phía Đông và phía Nam.
Hình 1: So sánh sự xuất hiện các loại thảm họa từ năm 1970 đến 2014
213
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
Tổng chiều dài các tuyến sông, kênh rạch
khoảng 1200 km, bao gồm chiều dài của các
tuyến sông chính khoảng 848km (TEDI-South,
2013). Do đó, việc ứng xử với yếu tố nước phù
hợp là điều quan trọng nhằm đảm bảo đô thị có
khả năng phát triển bền vững trước những nguy
cơ tiềm ẩn từ môi trường tự nhiên, chẳng hạn
như sạt lở bờ sông, ngập lụt; nhưng lại thiếu sự
quan tâm trong quá trình đầu tư xây dựng. Theo
các quy hoạch thoát nước tổng thể (phê duyệt
theo các quyết định QĐ 752, QĐ 1574) thành
phố đã đầu tư các tuyến bờ kè chính dọc sông, và
một số kênh rạch chính với mục tiêu chính bảo
vệ cho khu vực trung tâm (tính đến bờ phía Tây
sông Sài Gòn).
Tuy nhiên, giải pháp bờ kè bằng bê tông
hóa như truyền thống được cho là sẽ không có
hiệu quả lâu dài một khi tính biến động – mức
tăng của đỉnh triều quá nhanh được xem là thách
thức cho việc xác định các mục tiêu thiết kế – ví
dụ cao độ mép bờ cao. Số liệu thủy văn trong
hơn 35 năm (1981 – 2015) cho thấy mực nước
đỉnh triều trong năm tại trạm Phú An tăng đáng
kể (VD: + 1,55m năm 2010, + 1,68m năm 2013,
2014, theo đài Khí tượng thủy văn Nam bộ), và
thậm chí tăng lên + 1,71m năm 2017. Đáng lưu
ý, mức tăng này cao hơn nhiều so với mức tăng
của mực nước biển tại cửa biển Vũng Tàu với
mức chênh lệch ngày càng lớn (xem hình 2);
trong khi mức tăng bình quân của toàn cầu
khoảng 3,3mm/ năm từ 1995 – 2015 (Guha-
Sapir, 2016). Hơn nữa, những giải pháp truyền
thống có thể gây ra hệ quả tiêu cực liên quan đến
dòng chảy và khả năng thẩm thấu vào vùng trước
đây là trũng – và trữ nước. Nước từ hệ thống
sông – kênh nên được tạo điều kiện tiếp cận vào
các vùng trũng thấp theo cơ chế tràn mặt và thẩm
thấu tự nhiên, để có thời gian giảm tốc phù hợp.
Ngược lại, tốc độ dòng nước qua các tuyến kênh
trong đô thị nhanh hơn có thể khiến khu trung
tâm hiện hữu (điểm cuối) tiếp nhận lượng nước
quá lớn trong một thời gian ngắn (liên quan đến
thời gian truyền triều) – sẽ dẫn đến rủi ro ngập
cao hơn.
Việc quá phụ thuộc và các cống ngăn triều
dự kiến sẽ được đưa vào sử dụng trong thời gian
tới có thể là “con dao hai lưỡi” một khi công tác
vận hành thất bại. Như vậy, bài toán tổng thể về
quản lý nước vẫn chưa được xem xét đầy đủ khi
đưa các hệ thống riêng biệt – với mục tiêu khác
nhau cùng hoạt động. Với góc nhìn đa chiều,
việc đầu tư xây dựng mới hay nâng cấp các công
trình này chỉ có thể giải quyết “phần ngọn”, và
thậm chí có thể tạo ra các tác động cần đánh giá
kỹ lưỡng, và cần có những tham khảo từ kinh
nghiệm của một số đô thị trên thế giới, vốn đã
chứng kiến sự thất bại của các hệ thống bảo vệ,
và thậm chí đang có xu hướng “quay đầu” trước
các giải pháp công nghệ cứng.
Trên thực tế, các công trình bảo vệ (đê bao
hay bờ kè) có thể góp phần làm tăng nguy cơ dẫn
đến thiệt hại về con người liên một khi bị phá vỡ
trước những tác động không lường trước của
thiên tai vượt khả năng chịu đựng của các công
trình được thiết kế (Duy et al., 2017b). Thực tiễn
này đã được đúc kết từ một số bài học kinh
nghiệm qua các thảm họa ngập gây tổn thất
nghiêm trọng do sự suy giảm khả năng chống
chịu của các công trình bảo vệ ngập tại một số đô
thị gần biển trên thế giới.
Lấy ví dụ, hệ thống đê bao của New
Orleans bị lún sụt khoảng 90cm (Petterson et. al,
2006), góp phần làm suy yếu khả năng chịu đựng
của hệ thống trong thảm họa Katrina năm 2005.
Khi xảy ra biến cố, chính hệ thống đê bao này lại
là “rào cản” không cho nước thoát ra ngoài, duy
trì quá trình ngập úng của đô thị trong thời gian
dài (ibid). Một minh chứng khác cho sự sai lệch
về năng lực thiết kế và khả năng hoạt động thực
tế là trận ngập lịch sử ở Manila 2009. Các tuyến
thoát lũ cho sông Marikina của vùng Manila đã
không hoạt động đúng như công suất dự kiến
(1.500 m3/giây – 1.800 m3/giây so với 2.600 –
2.900 m3/ giây) (Sato and Nakasu, 2011). Tương
tự, ít nhất 10 công trình chống ngập cho vùng đô
thị Bangkok đã bị phá vỡ trong trân ngập lịch sử
2011 dẫn đến ngập nghiêm trọng tại đô thị trung
tâm – thủ đô Bangkok (WB, 2012); trong khi hệ
thống chống ngập của Thái Lan đã được đầu tư
lớn hơn về mặt quy mô so với hệ thống hiện hữu
tại Tp. HCM (Phi, 2013).
214
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
Nguồn: Đài khí tượng thủy văn Nam Bộ (1981-2015)
Bài học kinh nghiệm của một số đô thị đã
hứng chịu thảm họa và một số quan niệm mới
về ứng xử với nước trong đô thị
Những thất bại của các hệ thống bảo vệ tại
các đô thị đã nêu phần nào minh chứng rằng
những giải pháp công trình cứng luôn có những
điểm yếu liên quan đến mục tiêu thiết kế nhằm
tạo ra khả năng chống chịu của các công trình do
con người tạo ra. Các mục tiêu này chủ yếu dựa
vào năng lực dự báo, hiện nay vẫn chỉ dựa trên
cơ sở tổng hợp số liệu từ quá khứ, trong khi yếu
tố biến động của khí hậu lại có thể xảy ra ngoài
khả năng tiên lượng của con người (Zevenbergen
et al., 2008). Thêm vào đó, chính các hệ thống
này có thể làm tăng tính chủ quan của chính
quyền và cộng đồng, giảm khả năng ứng biến
linh hoạt và phục hồi nhanh khi xảy ra biến cố.
Lấy ví dụ, rất nhiều người dân tại New Orleans
đã không tiến hành sơ tán do tin và sức chịu
đựng của hệ thống bảo vệ của Thành phố, nhưng
khi hệ thống bị phá vỡ hoàn toàn thì chính hệ
thống đê bao lại làm hạn chế khả năng thoát
nước trong khi người dân tại các khu vực ngập
lại không có khả năng thoát ra khu vực an toàn
hơn do kết nối giao thông không khả dụng.
Trong ba đô thị đã nêu, New Orleans được đầu tư
hệ thống quy mô nhất, nhưng lại chứng kiến thiệt
hại nặng nề nhất về sinh mạng (gần 1.500 người)
và tài sản so với hai đô thị còn lại tại các nước
Đông Nam Á. Do đó, việc đầu tư xây dựng các
công trình nói trên khó có thể được sử dụng làm
cơ sở cho quá trình ổn định và phát triển đô thị
bền vững.
Ngoài những thảm họa tại một số thành
phố đã nêu, một số thành phố khác như
Birmingham, mặc dù không phải là thành phố
gần biển nhưng cũng đang đối mặt với vấn đề
ngập lụt diễn tiến phức tạp do nhiều yếu tố liên
quan đến hệ thống sông, kênh rạch, nước ngầm,
nước thải (Proverbs et al., 2019). Với thực
trạng ngày càng nghiêm trọng, chính quyền
Thành phố này cũng đang tìm những giải pháp
hiệu quả hơn sau kinh nghiệm thất bại của các hệ
thống bảo vệ cứng. Việc điều chỉnh, tác động đến
bờ sông chỉ dựa vào giải pháp kỹ thuật có thể
ảnh hưởng đến đặc điểm tự nhiên của dòng chảy
(như vận tốc), và ảnh hưởng đến các cư dân sống
dọc hai bên bờ sông. Do đó, tại Vương Quốc
Anh, các chuyên gia và chính quyền đô thị đang
thay đổi cách suy nghĩ về hướng tiếp cận tích
hợp đối với vấn đề quản lý rủi ro ngập, kết hợp
nhiều giải pháp, chẳng hạn “blue-green” (kết hợp
giữa giải pháp cứng và mềm). Các đô thị tại Anh
hiện nay đang thật sự chú trọng hơn vào các ý
tưởng về “resilience” (tạm dịch khả năng hồi
phục nhanh), làm định hướng cho các chiến lược
quản lý rủi ro ngập mang tính thích ứng hơn,
chẳng hạn “sống với nước” và “xây dựng trở lại
tốt hơn”.
215
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
Kết luận
Giải pháp bờ kè dọc các tuyến sông ngòi,
kênh rạch mà Tp. HCM đã và đang triển khai
hiện nay chỉ có thể khắc phục tình trạng sạt lở,
cải tạo không gian cảnh quan dọc hai bên bờ
trong các giai đoạn ngắn hạn; nhưng khả năng
ứng phó với những biến đổi thất thường của môi
trường thiên nhiên, chẳng hạn triều cường tăng
cho cần được xem xét ở góc độ tổng thế của toàn
đô thị. Các hệ thống này có thể ảnh hưởng đến
khả năng cân bằng và thoát nước mặt tự nhiên
trong đô thị. Thành phố cần xác định “vùng bảo
vệ cứng” dựa trên hệ thống hạ tầng hiện có, và
các khu vực được tích hợp các giải pháp linh
hoạt, chẳng hạn bờ kênh rạch tự nhiên – không
bê tông hóa. Mục tiêu này có liên quan việc tìm
những giải pháp lập và quản lý quy hoạch, và
thiết kế hiệu quả hơn tại các vùng trũng thấp với
cách tiếp cận vấn đề phù hợp hơn, nhưng vẫn
chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Các
phương pháp đầu tư xây dựng hạ tầng truyền
thống (chẳng hạn nâng cao độ của đê bao – bờ
kè, hoặc cao độ san lấp cao hơn so với đỉnh triều
cao nhất cho một số khu khu vực nhất định) đã
bộc lộ yếu điểm trước mức biến động không
ngừng của môi trường tự nhiên, và thậm chí gây
ảnh hưởng đến các khu vực lân cận.
Trong khi đó, những giải pháp hướng tới
xây dựng “hạ tầng xanh” – sự kết hợp giữa giải
pháp công nghệ và duy trì hệ sinh thái tự nhiên
với khả năng tổ chức các không gian đa chức
năng cho là điều cần thiết. Tăng khả năng hấp
thụ, trữ nước, và thậm chí đưa nước vào bên
trong lòng đô thị nhằm giảm cao độ mực nước
trên các tuyến sông ngòi, kênh rạch được nhóm
tác ủng hộ và đề xuất cần được tích hợp vào các
đồ án quy hoạch phát triển đô thị. Liên quan đến
chính sách và công tác quản lý, chính quyền
thành phố nên cân đối lại mức đầu tư và và xem
xét tính khả thi dài hạn đối với các dự án đã và
đang triển khai nhằm tránh lãng phí và không
đem lại hiệu quả như mong đợi. Thay vào đó,
việc đầu tư vào các dự án nghiên cứu mang tính
tổng thể nhằm xây dựng các cơ sở khoa học vững
chắc, với góc nhiều đa chiều sẽ giúp tiết kiệm chi
phí và nâng cao hiệu quả đầu tư về mặt dài hạn;
đồng thời giúp đô thị có khả năng phát triển ổn
định và bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo
Asia Development Bank – ADB (2010). Ho Chi
Minh City Adaptation to Climate Change.
Philippines: ADB, ISBN: 978-971-561-893-9
Cigler B. A. (2007). The “Big Questions” of
Katrina and the 2005 Great Flood of New
Orleans. Public Administration Review, Special
issue 2007, pp. 64-76. DOI: 10.1111/j.1540-
6210.2007.00814.x
Doocy S., Daniels A., Murray S. and Kirsch T.
D. (2013). The Human Impact of Floods: a
Historical Review of Events 19802009 and
Systematic Literature Review. PLOS Currents
Disasters, 2013 Apr 16. DOI:
10.1371/currents.dis.f4deb457904936b07c09daa
98ee8171a
Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V.,
and Linh P. N. (2017a). Increasing Vulnerability
To Floods In New Development Areas: Evidence
From Ho Chi Minh City. International Journal of
Climate Change Strategies and Management.
DOI: 10.1108/IJCCSM-12-2016-0169
Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V.,
and Linh P. N. (2017b). Urban Resilience to
Floods in Coastal Cities: Challenges and
Opportunities for Ho Chi Minh City and other
Emerging Cities in Southeast Asia. Accepted by
Journal of Urban Planning and Development
(05/2017). ASCE.
Duy P. N., (2019). Developing Flood Resilient
Transport Systems in Coastal Cities: A case
Study in Ho Chi Minh City, Vietnam.
(URL:https://etheses.bham.ac.uk/id/eprint/9164/9
/Duy2019PhD_Redacted.pdf )
General Statistic Office of Vietnam – GSOV
(1976 - 2015). Population of Ho Chi Minh from
1986 – 2015 (data extracted).
Guha-Sapir D, Hoyois P., Wallemacq P. Below.
R (2016). Annual Disaster Statistical Review
216
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp
để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025
2016: The Numbers and Trends. Brussels:
CRED (online, accessed 21/03/2018). URL:
Petterson J. S., Stanley L. D., Glazier E., Philipp
J. (2006). A Preliminary Assessment of Social
and Economic Impacts Associated with
Hurricane Katrina. American Anthropologist,
Vol. 108, Issue 4, pp. 643-670, ISSN 0 002-
7294, electronic ISSN 1548-1433. The American
Anthropological Association.
Phi H. L. (2013). Urban Flood in Ho Chi Minh
City: Causes and Management Strategy (In
Vietnamese). Vietnamese Journal of
Construction Planning, Vol. 63 (pp. 26-29).
Hanoi.
Southern Regional Hydro - Meteorological
Center - SRHC (2015). Water level and
Precipitation Records 2010 – 2015 (data
extracted).
Adedeji T., Proverbs D., Xiao H., Cobbing P.
and Oladokun V (2019). Making Birmingham a
Flood Resilient City: Challenges and
Opportunities. MDPI - Water 2019, Vol. 11,
1699. DOI:10.3390/w11081699
Sato T. and Nakasu T. (2011). 2009 Typhoon
Flood Disasters in Metro Manila. National
Research Institute for Earth Science and Disaster
Prevention, No. 45.
Transport Engineering Design J.S. Incorporated
South, TEDI-South (2013). Revision of Plan for
Transport Development in Ho Chi Minh City by
2020 (in Vietnamese).
Zevenbergen C., Veerbeek W., Gersonius B.,
and VanHerk S. (2008). Challenges in UMF -
Travelling Across Spatial and Temporal Scales.
Flood Risk Management 1 (2008), pp. 81–88,
DOI:10.1111/j.1753-318X.2008.00010.x
217