Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam sau thời kỳ đổi mới

Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chúng ta luôn quan niệm một xã hội không còn người bóc lột người, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, người với người là bạn. như là một xã hội có thể đạt được trong một thời gian ngắn sau khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mặc dù tư tưởng về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã có ngay từ trong Chánh cương - sách lược vắn tắt và Luận cương năm 1930, nhưng khi đó và trong toàn bộ quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng ta vẫn chưa hình dung được tính phức tạp, lâu dài của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau khi giành được hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, vấn đề bức bách trong sự lãnh đạo của Đảng là tìm tòi phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội thích hợp với nước ta; xác định đúng những trọng điểm cần tập trung sức giải quyết để khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh, từng bước ổn định kinh tế và đời sống của nhân dân; mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho quá trình phát triển của đất nước. Trong khi giải quyết toàn diện những yêu cầu đó, Đảng ta quán triệt sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin cho rằng, xét cho cùng thì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản được quyết định bởi chỗ giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động có năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Do vậy, Đảng ta đã dành chú ý đặc biệt cho việc hình thành quan niệm về con đường phát triển kinh tế của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

doc13 trang | Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam sau thời kỳ đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ trước đổi mới Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chúng ta luôn quan niệm một xã hội không còn người bóc lột người, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, người với người là bạn... như là một xã hội có thể đạt được trong một thời gian ngắn sau khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mặc dù tư tưởng về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã có ngay từ trong Chánh cương - sách lược vắn tắt và Luận cương năm 1930, nhưng khi đó và trong toàn bộ quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng ta vẫn chưa hình dung được tính phức tạp, lâu dài của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau khi giành được hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, vấn đề bức bách trong sự lãnh đạo của Đảng là tìm tòi phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội thích hợp với nước ta; xác định đúng những trọng điểm cần tập trung sức giải quyết để khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh, từng bước ổn định kinh tế và đời sống của nhân dân; mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho quá trình phát triển của đất nước. Trong khi giải quyết toàn diện những yêu cầu đó, Đảng ta quán triệt sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin cho rằng, xét cho cùng thì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản được quyết định bởi chỗ giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động có năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản... Do vậy, Đảng ta đã dành chú ý đặc biệt cho việc hình thành quan niệm về con đường phát triển kinh tế của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, với những hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề. Để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu trong một chế độ mà nhân dân làm chủ, cần có nền kinh tế phát triển cao nhờ lực lượng sản xuất hiện đại, với quan hệ sản xuất tiên tiến... Muốn vậy, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng con đường ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dụng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công-nông nghiệp hiện đại văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc. Thực hiện đường lối kinh tế đó, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ ở miền Nam. Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa lại làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng. Có tình trạng trên đây là do chúng ta đã chủ quan, nóng vội, xác định sai lầm bước đi; không biết tận đụng và phát triển lực lượng sản xuất đã có; có những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hậu quả là những nhân tố khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV đã tập trung tìm mọi cách làm cho sản xuất ''bung ra''... Vấn đề tận dụng sức mạnh của các thành phần kinh tế đã được chú ý tới; xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp; chính sách đối với thành phần kinh tế cá thể từng bước được mềm hoá cho đúng thực tế hơn... Những tìm tòi được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) và các nghị quyết tiếp theo đã đặt những viên gạch nền móng đầu tiên cho quá trình đổi mới. Để góp phần khắc phục tư tưởng nôn nóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội V đã đưa ra tư tưởng về sự phân chia thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thành nhiều chặng: ''Chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 -1985 kéo dài đến năm 1990''. Trong giai đoạn 1981-1985, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công nghiệp hợp lý. Xem đó là "nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt”. Song, những bước tiến đạt được trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội V đạt được chưa có đủ thời gian cần thiết để biến thành những thay đổi tích cực trong thực tiễn kinh tế - xã hội. Phân tích tình hình thực tế khi đó, Hội nghị Trung ương ba khoá V (12-1982) chỉ ra rằng, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn gay gắt, nền kinh tế có nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng; lưu thông phân phối có nhiều diễn biến xấu; thị trường rối loạn, công tác quản lý lỏng lẻo. Tiếp tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội để vượt khỏi tình hình đó ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách đối với Đảng ta. II. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam sau thời kỳ đổi mới 1. Công cuộc đổi mới ở nước ta từ đại hội VI đến đại hội X Công cuộc đổi mới ở nước ta, được Ðại hội VI của Ðảng khởi xướng năm 1986, bên cạnh nhiệm vụ nóng bỏng trước mắt là khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70, còn có nhiệm vụ cơ bản và lâu dài hơn: Ðó là xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (24-27-6-1991) đã thông qua Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ lên CNXH (còn gọi là Cương lĩnh 91) nêu rõ 6 đặc trưng của CNXH: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; - Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng trên đây, bao quát cả sáu lĩnh vực: chính trị, kinh tế, vǎn hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Gọi là đặc trưng, bởi lẽ đây là những khác biệt so với mọi kiểu loại xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, những khác biệt đem lại sự giải phóng hoàn toàn và triệt để cho dân tộc, cho xã hội và cho con người.  Đến Đại hội VIII ((28/6-1/7/1996) và Đại hội IX ((19/4-22/4/2001, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: 6 đặc trưng của CNXH. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ((18/4-25/4/2006), Đảng ta bổ sung mô hình đặc trưng CNXH gồm 8 đặc trưng như sau: - Xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội(CNXH) là giải phóng con người. Trình độ giải phóng con người phụ thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội xét đến cùng do sự phát triển của lực lượng sản quyết định. Trong xã hội XHCN khi lực lượng sx phát triển đến trrình độ hiện đại, mang tính chất xh hoá ngày càng nâng cao và quan hệ sx XHCN thích ứng với llsx đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu đối với những tư liệu sx chủ yếu, người lao động mới có điều kiện làm chủ quá trình sx và các lĩnh vực của đời sống xh. Vì vậy trong quá trình xây dựng CNXH cần thường xuyên coi trọng đẩy mạnh công nghiêp hoá hiện đại hoá đất nước trên cơ sở đó không ngừng hoàn thiện quan hệ sx theo đinh hướng XHCN. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của ĐCSVN đã nêu ra quan điển lớn trong đó khẳng định”nếu CNH - HĐH tạo nên llsx cần thiết cho chế độ xh mới thì viêc phát triển kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sx phù hợp’’ Ngày nay công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá, khoa hoc công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.Tính ưu việt, sự ổn định và phát triển của xã hội XHCN không chỉ thể hiện ỏ lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hoá tinh thần của xh. Văn hoá ngày càng trở thành động lực quan trong của sự phát triển là nền tảng tinh thần của xh. Sự phát triển của văn hoá XHCN không những đáp ứng nhu cầu về văn hoá tinh thần của người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển của sx vật chất và các lĩnh vực khác đảm bảo sự thắng lợi của CNXH. Việc xây dựng và phát triển văn hoá xã hội tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một vấn đề có tính quy luật của quá trình xây dựng CNXH. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử như lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết đức tính cần cù… Việc bảo vệ bảo vệ bản sắc dân tộc gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay những cái tiến bộ. Chúng phải kiên quyết chông lại tư tưởng phản tiến bộ, trái với phương hướng đi lên CNXH. - Con người được giải phóng áp bức bóc lột, bất công làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện sống trong môi trường sinh thái trong lành. Con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là mục tiêu cao nhất trong cuộc cách mạng XHCN. Xã hội XHCN là một liên hợp xh kiểu mới “trong đó sự phát triển tự do của mới người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người’’ Phân phối theo lao động trong xã hội XHCN, là hình thức phân phối thích hợp nhất để tạo ra sự bình đẳng con người trong xã hội XHCN được tự do phát triển khả năng, phát biểu ý kiến. Con người luôn là trung tâm, họ được tạo điều kiện phát triển. - Các dân tọc trong nước bình đẳng đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Mục tiêu cơ bản của mục tiêu của CNXH là xoá bỏ áp bức dân tộc phấn đấu cho quyền được sống trong hoà bình tự do, hạnh phúc, bình đẳng của một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc, xây dựng quan hệ đoàn kết hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. Thắng lợi của CNXH cũng phụ thuộc một phần rất quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề dân tộc. Kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với CNXH là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay sự. Sự tồn tại và phát triển của CNXH đòi hỏi phải giải quyết đúng dắn vấn đề dân tộc sự bình đẳng đoàn kết của các dân tộc tạo sự liên kết lớn, một khối đại đoàn kết vững mạnh tiến bước trên con đường CNXH. - Xây dựng nhà nước pháp quyền CNXH. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,là nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan cán bộ công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Cải cách tổ chức nâng cao chất lượng của các cơ quan tư pháp viện kiểm sát nhân dân, chăm lo bảo vệ con người giải quyết kịp thời khiếu lại tố cáo của công dân sẽ tạo điều kiện phát huy sức mạnh dân tộc. - Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. CNXH giải phóng hàng trăm triệu người lao động khỏi áp bức bất công ngèo nàn và mu muội đem lại địa vị xã hội. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự trì trệ khủng hoảng trầm trọng và sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước đông âu và liên xô là do việc hạn chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để xây dựng càng hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN thì phải thường xuyên chăm lo xây dựng nhà nước XHCN của dân do vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng do dân lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng bảo vệ đất nước nhất là việc dám sát, kiểm tra của nhân dân đối với các hoạt động của cơ quan cán bộ công chức nhà nước. - Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước vì hoà bình độc lập phát triển. Thông qua quan hệ hợp tác, hữu nghị các nước trên thế giới, chủ nghĩa mở rộng sự ảnh hưởng của mình góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Việt Nam san sằng là bạn của tất cả các nước trên thế giới. Mở rộng quan hệ quốc tế giúp việt nam học hỏi, tiếp thu tinh hoa nhân loại nhận thức về xã hội XHCN sẽ ngày càng bổ sung, hoàn thiện đầy đủ sâu sắc. 2. Những điểm điều chỉnh, bổ sung và phát triển về mô hình CNXH Một là, Đại hội X điều chỉnh: “Do nhân dân làm chủ” (Đại hội VII nêu “Do nhân dân lao động làm chủ”. Lợi ích của sự điều chỉnh này là: - Quy tụ được sức mạnh của dân tộc để thực hiện mục tiêu. - Đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh hơn: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Hai là, “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” (Đại hội VII: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được thể hiện từ : - Đại hội VIII khi xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã xác định: “Quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Đại hội IX: Khi nói về mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta cũng xác định “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng CNXH do đó, chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu vẫn còn tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ, đó là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ hơn, phù hợp với thực tế hơn. Ba là, “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”. (Đại hội VII nêu: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân). So với Đại hội VII, Đại hội X khát quát lại đặc trưng này ngắn gọn hơn súc tích hơn, rõ ràng hơn và có một sự điều chỉnh, không sử dụng từ “bóc lột” trong đặc trưng này, vì: - Mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta trước hết không chấp nhận chế độ người bóc lột người. - Thừa nhận trên thực tế trước mắt còn có hiện tượng bóc lột, có sự phân hoá giàu nghèo, nhưng không dẫn tới sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. - Thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức thuê mướn lao động, nhưng trong khuôn khổ nhất định, vì trong CNXH ta chấp nhận nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Bốn là: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ” Đại hội VII nêu: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Cái mới ở đặc trưng này so với Đại hội VII là: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (chứ không phải chỉ có các dân tộc trong nước). - Quan điểm này thể hiện rõ cách mạng là sự nghiệp của toàn thể dân tộc Việt Nam - đó cũng là diểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. - Sức mạnh của dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn của mọi thắng lợi, là động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, của công cuộc đổi mới đất nước - là nguồn nội sinh của cách mạng. Đến đại hội IX Đảng ta nêu rõ hơn: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc” trong khi Đại hội VIII chỉ nói “phát huy sức mạnh của cả cộng đồng”. - Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam (gồm toàn thể người dân Việt Nam ở trong nước và cả bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài) - Đó là nguồn lực của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, cần phải phát huy để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Năm là, “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” - Đây là đặc trưng mới được bổ sung, rút ra từ tổng kết thực tiễn về xây dựng CNXH ở nước ta, từ sự đóng góp lý luận của Chương trình KX 01. - Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã chính thức được các Đại hội VIII và IX nêu ra. - Đại hội X tiếp tục kế thừa và đưa vào một trong các đặc trưng của mô hình CNXH mà nhân dân ta cần xây dựng. Sáu là, đặc trưng có tính bao trùm nhất và có thể coi như là mô hình tổng quát về chế độ kinh tế, chính trị – xã hội của nước ta (khác về chất với các chế độ xã hội khác) là: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây chính là điểm tương đồng để kết nối cộng đồng dân tộc Việt nam theo tinh thần khép lại quá khứ, cùng nhau hướng về tương lai một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”, “dân cường, nước thịnh” theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. III. Nhìn lại quá trình đổi mới ở đất nước ta sau hai mươi năm (từ năm 1986 – 2007) 1. Vì sao Việt Nam phải đổi mới Trong thời gian dài trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết, với những đặc trưng chủ yếu là: xây dựng nền kinh tế khép kín về lục lượng sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, thục hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh nhưng sau đó bộc lộ rõ những khuyết điểm, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn và lâm vào khủng hoảng vì vậy yêu cầu đổi mới được đặt ra là hết sức cần thiết. 2. Những thành tựu Việt Nam đạt được trong quá trình đổi mới - Kinh tế tăng trưởng khá. Văn hoá – xã hội có những tiến bộ. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt. - Cuộc sống nhân dân thay đối, cơ bản đã được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. - Vị thế uy tín của nước ta nâng cao trên trường quốc tế. 3. Bài học kinh nghiệm được rút ra Hai mươi năm đổi mới đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới của Đảng nêu lên đến nay vãn còn giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau đây: Một là, trong quá trình đổi mới kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa mác – Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống cuả xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh bổ xung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình. Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhâ