Những hạn chế và nguyên nhân các hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Theo anh chị, để khắc phục hạn chế đó cần phải có những giải pháp nào?

Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành, do đó, quản lý hoạt động đầu tư là một đòi hỏi khách quan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước Việt Nam XHCN thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình trong đó có việc quản lý hoạt động đầu tư nh. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời nó cũng là một trong những động lực quan trọng để thực hiện được kế hoạch huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cho phép thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005

doc20 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2235 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những hạn chế và nguyên nhân các hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Theo anh chị, để khắc phục hạn chế đó cần phải có những giải pháp nào?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài : Anh chị hãy làm rõ những hạn chế và nguyên nhân các hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Theo anh chị, để khắc phục hạn chế đó cần phải có những giải pháp nào? Bài làm Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành, do đó, quản lý hoạt động đầu tư là một đòi hỏi khách quan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước Việt Nam XHCN thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình trong đó có việc quản lý hoạt động đầu tư nh. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời nó cũng là một trong những động lực quan trọng để thực hiện được kế hoạch huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cho phép thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005 Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư còn bộc lộ một số hạn chế sau: 1. Quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà: Theo quy chế hiện hành, công tác quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện thông qua nhiều cấp kiểm tra, xét duyệt, quyết định. Thí dụ, theo điều 10 của Nghị định 52/CP, thì: + Đối với công trình nhóm A, phải qua năm cấp dưới đây: - Cấp lập dự án đầu tư (chủ đầu tư); - Cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư; - Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng các Ban, ngành quản lý dự án đầu tư nếu công trình đó do Trung ương quản lý; hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nếu công trình do địa phương quản lý; - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại, Quĩ Hỗ trợ phát triển (nếu công trình có sử dụng vốn vay); - Thủ tướng Chính phủ. + Đối với công trình thuộc nhóm B, phải qua bốn cấp đầu tiên của qui trình trên (không qua cấp Thủ tướng Chính phủ). + Đối với công trình thuộc nhóm C, phải qua ba cấp đầu tiên; (không qua 2 cấp cuối cùng là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam ...và cấp Thủ tướng Chính phủ). Như vậy, với một quy trình gồm nhiều cấp như vậy, sẽ rất dễ dẫn tới hiện tượng dàn trải về trách nhiệm, không có cấp nào chịu trách nhiệm toàn diện và đầy đủ. Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế quản lý còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu tính minh bạch, thông tin không đầy đủ, việc xác định một dự án đầu tư cụ thể có hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội là vấn đề không dễ dàng và có đầy đủ tính thuyết phục. 2. Vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư chưa rõ ràng. Trình độ, năng lực của chủ đầu tư, cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập:    Trong quá trình kiểm tra, thanh tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có tình trạng chủ đầu tư giao cho các doanh nghiệp không đủ năng lực chuyên môn và tài chính thực hiện công trình. Như vậy, dẫn đến những hậu quả tai hại đối với công trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của chủ đầu tư; không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa.    Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có tình trạng phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp sử dụng công trình sau khi hoàn thành. Ví dụ công trình xây dựng bệnh viện thường do giám đốc bệnh viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu trưởng nhà trường làm chủ dự án; công trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm chủ dự án... Nhưng do những người này không có kiến thức chuyên môn về quản lý đầu tư và xây dựng nên sai sót, đến khi bị thanh tra phát hiện, thì đổ cho các nguyên nhân khách quan như không có nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan quản lý nhà nước đã thẩm định và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó...    Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ đầu tư, nhất là các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn rất hạn chế ngay từ khâu lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình thành các PMU như hiện nay, thực chất là thêm một khâu trung gian không cần thiết, cần nghiên cứu cải tiến, nếu xét thấy không phù hợp với thực tế quản lý thì giải tán. 3. Đầu tư chưa theo quy hoạch; chất lượng quy hoạch chưa cao; chất lượng các báo cáo nghiên cứu khả thi còn hạn chế; chất lượng phân tích, thẩm định và đánh giá dự án không theo đúng các chuẩn mực và tiêu chí rõ ràng.     Chất lượng của công tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui hoạch chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều tiến hành xây dựng các quy hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch ngành và qui hoạch lãnh thổ; chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện; kết quả phổ biến là tình trạng đầu tư còn chồng chéo, dư thừa công suất chế biến, nhưng lại thiếu nghiêm trọng nguồn nguyên liệu, đầu tư thiếu đồng bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần, thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kém.     Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với yêu cầu thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và của từng ngành, lĩnh vực. Các công trình, dự án chưa tính đến các điều kiện và yếu tố cần thiết cho khai thác, sử dụng.    Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở lý luận, phương pháp lập chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp; vì vậy thường xuyên phải điều chỉnh, kém tính ổn định. 4. Đầu tư chưa đúng mục tiêu phát triển; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, chưa tạo điều kiện để tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng cạnh tranh...      Mục tiêu đầu tư đã được xác định trong nhiều thời kỳ kế hoạch 5 năm và hàng năm là tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu đầu tư, tăng hiệu quả của nền kinh tế, nhanh chóng hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện cho một số sản phẩm chính của nền kinh tế có qui mô sản xuất lớn, sức cạnh tranh trên thị trường trong và nước. Tuy nhiên, kết quả của nhiều năm đầu tư chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.     Trong nông nghiệp còn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư     Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã tập trung chủ yếu cho các công trình hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, nhằm thu hút nhiều hơn các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư. Nhưng tình trạng đua nhau xây dựng các trụ sở làm việc với qui mô và trang thiết bị đắt tiền vượt quá xa tiêu chuẩn qui định gây lãng phí, kém hiệu quả, tạo sự không công bằng. Bệnh hình thức, phô trương trong các công trình trụ sở còn rất phổ biến, từ Trung ương đến địa phương.     Việc đầu tư vào các công trình không có khả năng cạnh tranh như các công trình sản xuất thép, phân đạm và một số sản phẩm khác trong thời gian vừa qua mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành nhập khẩu sản phẩm cùng loại là vấn đề rất đáng rút kinh nghiệm và nên tránh trong quá trình xem xét và triển khai đầu tư. 5. Đầu tư quá phân tán, dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài.      Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư trong nhiều năm qua là đầu tư quá phân tán. Việc phân cấp quyền ra quyết định đầu tư các dự án và phân bổ vốn cho các dự án cũng đã được sửa đổi bổ sung theo hướng phân cấp cho các bộ, các ngành và các địa phương ngày càng nhiều. Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 và Nghị định số 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/CP quy định như sau: Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: - Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm A; - Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ,..,Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C; - Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ tư lệnh các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng và tương đương trực thuộc Bộ Quốc Phòng có thể được uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C; các Tổng cục trực thuộc Bộ có thể được uỷ quyền quyết định các dự án nhóm C; - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố còn lại có thể uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng; - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án thuộc vốn ngân sách Nhà nước do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp. Quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án của doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh và vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 10 của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành kèm theo Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ và khoản 4 điều 1 Nghị định này. Hội đồng quản trị các Tổng công ty Nhà nước được quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C. Riêng với các Tổng công ty 91 (Tổng công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập) thì Hội đồng quản trị của Tổng công ty được quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C. Việc phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phát huy tính chủ động, tính thực tiễn của cơ quan quản lý, của địa phương. Tuy nhiên, do thiếu các quy định cụ thể chi tiết, thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm bảo đảm vốn, phê duyệt dự án đầu tư không dựa vào khả năng cân đối vốn, thiếu kiểm tra, giám sát,... nên tình hình đầu tư phân tán, dàn trải còn phổ biến, số công trình dở dang chưa có vốn còn nhiều, nhưng đã bố trí hàng loạt công trình khởi công mới. Trong những năm qua, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, mặt khác quy hoạch phát triển ngành thể dục thể thao còn đang trong giai đoạn xem xét nên không tránh khỏi những thiếu sót trong việc quản lý đầu tư và xây dựng gây bất cập trong công tác quản lý và điều hành. Nguồn vốn ngân sách được phép để lại đầu tư cho các ngành, các địa phương thường không được kế hoạch hoá chặt chẽ trong kế hoạch chung của Nhà nước, của từng cấp Bộ ngành, tình trạng phân tán trong sử dụng nguồn vốn này là rất lớn. Việc phân cấp đầu tư giữa Trung ương và địa phương, giữa nhà nước và nhân dân chưa rõ ràng, gây ảnh hưởng lớn đến sự hoàn thiện, tính đồng bộ của công trình, công trình xây dựng kém hiệu quả. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán dàn trải còn do nể nang, chủ nghĩa bình quân vẫn còn xảy ra ở nơi này, nơi khác,... do đó bố trí vốn không tập trung, dứt điểm. Tình trạng đầu tư theo phong trào còn chưa chấm dứt. Do vậy, cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan phê duyệt để hạn chế tình trạng phê duyệt tràn lan, đồng thời quy định chế tài đối với các bên cấp vốn và nhận vốn nếu như thực hiện sai các quy định này. Ví dụ bên cấp vốn cấp vốn cho các công trình được phê duyệt lại với tổng dự toán tăng lên không phải do nguyên nhân khách quan được Nghị định mới cho phép, hoặc bên tiếp nhận vốn đệ trình các dự án không nằm trong quy hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt... đều phải bị xử lý. 6- Lãng phí và thất thoát trong đầu tư và xây dựng, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào công trình thấp.     Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn.    Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.    Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ công trình.     Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.     Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không tiêu thụ được...     Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc quản lý rất kém hiệu quả.     Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nếu như có được một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu chỉ có một người chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình hình sẽ không tồi tệ như vậy. 7. Chất lượng công trình xây dựng thấp    Chất lượng nhiều công trình rất thấp, đặc biệt đối với các dự án hoàn toàn sử dụng vốn và nhà thầu trong nước. Các nhà thầu cố đưa giá thầu thấp để thắng thầu rồi sau đó tìm mọi cách hạ giá thành bù lại phần chênh lệch. Mặt khác, các nhà thầu cũng như tư vấn giám sát không tuân thủ nghiêm ngặt đúng quy trình, quy phạm và thiết kế kỹ thuật nên công trình không đảm bảo chất lượng.    Trong những năm gần đây, tần suất xuất hiện sự cố công trình ngày một nhanh; tỷ lệ công trình phải sửa chữa ngay khi đưa vào sử dụng ngày càng tăng; sai phạm xảy ra ở hầu hết các công đoạn, bộ phận hình thành kết cấu công trình. Do thông tin ban đầu không chính xác nên giải pháp thiết kế thường không phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất. Công tác giám sát rất hình thức.    Đặc biệt, chủ đầu tư có vai trò và quyền lực lớn, nhưng năng lực hạn chế và bị môi trường nhiều tiêu cực chi phối nên dễ dàng chấp nhận bàn giao các công trình kém chất lượng.    Một nguyên nhân quan trọng khác là các nhà thầu thường chấp nhận bỏ thầu thấp; nhưng khi triển khai thi công thì đổ lỗi cho khách quan để xin bổ sung vốn, hoặc thi công với mức tiết kiệm tối đa, chấp nhận chất lượng các công trình thấp..   Vai trò giám sát thi công còn rất hạn chế, tác dụng không đáng kể. Tình trạng dễ dãi với các nhà thầu của các tư vấn giám sát và của các chủ đầu tư là một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của các công trình xây dựng. Với cơ chế giám sát như hiện nay, cơ quan tư vấn giám sát không độc lập được, nên gây ra tình trạng không khách quan, gây nên chất lượng kém và tạo điều kiện thất thoát vốn đầu tư. II. Các giải pháp. 1. Quan điểm đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế Các quan điểm chung về phân cấp quản lý kinh tế là (1): 1) Quan điểm thống nhất: Hệ thống nhà nước 4 cấp, mỗi cấp có quyền hạn, trách nhiệm đầy đủ, rõ ràng; 2) Quan điểm hiệu quả: Phân cấp phải đảm bảo có hiệu quả hơn, việc nào, cấp nào thực hiện có hiệu quả hơn thì cấp đó thực hiện. 3) Quan điểm khả thi: Phải tạo điều kiện cho việc thực hiện phân cấp, phải chuẩn bị đầy đủ về mặt thể chế, bộ máy, cán bộ, kinh phí; phân cấp phải với kiểm tra; tổ chức hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. 2. Nguyên tắc chung về phân cấp trong đầu tư (1). Phân cấp trong quản lý đầu tư là một yêu cầu khách quan. Cải cách thể chế nhà nước và tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất quản lý Nhà nước, có sự phối hợp giữa các cơ quan. Phù hợp với định hướng chung của cải cách thể chế nhà nước nêu trên, hoàn thiện quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư cần phải thực hiện theo nguyên tắc chung này. (2). Phân cấp phải đồng bộ với các biện pháp quản lý khác trong cơ chế quản lý kinh tế nói chung. Vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư không thể tách rời với quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý kinh tế nói chung vì thế cần phải xem xét trong mối quan hệ với các luật hiện hành có liên quan và định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý chung trong thời gian tới. Thực tế hoạt động đầu tư đang chi phối bởi nhiều văn bản dưới luật, trong đó không ít những nội dung quy định trong các văn bản này có sự chồng chéo hoặc không nhất quán; những vấn đề này cần được xem xét đồng bộ trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư nói chung và vấn đề phân cấp trong đầu tư nói riêng. Những tồn tại trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua không phải tập trung ở việc phân cấp, uỷ quyền quy định trong các văn bản hiện hành mà còn ở nhiều vấn đề khác như sự chuẩn xác của các quyết định chưa cao, việc thực hiện các quyết định, các quy định không nghiêm lại thiếu kiểm tra, theo dõi, giám sát,.... Mặt khác, phân cấp phải đi đôi với kiểm tra, kiểm soát. Nếu chỉ đặt ra vấn đề phân cấp một cách đơn thuần thì Nhà nước không kiểm soát được và có thể phản tác dụng, dẫn tới sự tuỳ tiện, lãng phí hơn. (3). Cần có tiêu chí, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, minh bạch, dễ vận dụng cho mỗi thời kỳ. Về phân loại các dự án đầu tư, phân cấp, uỷ quyền trong các khâu xét duyệt, thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư cần phải có tiêu chí và các điều kiện rõ ràng. Đây là vấn đề trong cơ chế quản lý đầu tư hiện hành chưa được đặt ra hoặc là chưa được nghiên cứu đầy đủ và cần phải bổ sung để đảm bảo sự hợp lý và thống nhất trong quản lý đầu tư. Tiêu chí chung nhất để phân cấp trong quản lý đầu tư là đảm bảo hiệu lực quản lý đối với các hoạt động đầu tư. Hiệu lực quản lý đầu tư được thể hiện ở 3 yếu tố cơ bản là thời gian, chất lượng và chi phí; cụ thể là nhanh, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu và với chi phí thấp nhất. Những tiêu chí điều kiện phân cấp sau: - Đảm bảo cho việc ra quyết định nhanh nhất. - Đảm bảo tính đơn nhất trong việc ra quyết định và trách nhiệm đối với một công việc. - Cấp quyết định phải là cấp có đủ điều kiện điều hành có hiệu quả nhất hoạt động đó trong khung khổ luật lệ và chính sách chung. 3. Phân cấp trong từng lĩnh vực cụ thể (1). Hoàn thiện hệ thống quy hoạch và kế hoạch đầu tư các cấp trên cơ sở đó phân định rõ trách nhiệm các cấp trong các khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Hầu hết các địa phương đã có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, một số đã được cập nhật, điều chỉnh, bổ sung... nhưng phần lớn các qui hoạch này đều được lập và phê duyệt trong những năm trước đây, với những tiền đề, điều kiện và hoàn cảnh thực tế khác xa so với tình hình mới hiện nay, do đó, nhiều nội dung trong các qui hoạch này cần cập nhật, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh. Nhiều ngành kinh tế kỹ thuật chưa lập quy hoạch phát triển. Quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng trong phạm vi toàn quốc đã được phê duyệt khá nhiều, song mức độ cụ thể để có thể làm căn cứ chắc chắn cho các quyết định đầu tư còn hạn chế; nhiều quy hoạch cần phải được chi tiết hoá theo từng nhóm ngành, sản phẩm. Các Bộ quản lý ngành phải có quy hoạch phát triển của ngành mình trong từng giai đoạn phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải lưu ý đến vấn đề hội nhập quốc tế, phải thường xuyên cập nhật, bổ sung, điều chỉnh. Các tỉnh, thành phố khi xây dựng qyui hoạch phát triển