Những vấn đề của văn học đại chúng: so sánh tiểu thuyết feuilleton ở Nam bộ trước 1945 và tiểu thuyết chương hồi

Tiểu thuyết Nam Bộ ra đời gắn với sự phát triển của báo chí. Do vậy phần lớn các tác phẩm xuất hiện dưới dạng feuilleton. Tiểu thuyết feuilleton mang những đặc tính xã hội giống tiểu thuyết chương hồi: bình dân, đại chúng. Về phương diện nghệ thuật, chúng có sự gặp gỡ ở việc chú trọng xây dựng cốt truyện tự sự, các thủ pháp mô tả nhân vật Đặc biệt trong tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX có sự thẩm thấu của dạng thức feuilleton và chương hồi và rất hấp dẫn đại chúng. Từ những vấn đề đã đặt ra, chúng tôi cho rằng văn học đại chúng phải trở thành đối tượng quan trọng của các nhà nghiên cứu.

pdf8 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 1012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề của văn học đại chúng: so sánh tiểu thuyết feuilleton ở Nam bộ trước 1945 và tiểu thuyết chương hồi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA VĂN HỌC ĐẠI CHÚNG: SO SÁNH TIỂU THUYẾT FEUILLETON Ở NAM BỘ TRƯỚC 1945 VÀ TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI PHAN MẠNH HÙNG* TÓM TẮT Tiểu thuyết Nam Bộ ra đời gắn với sự phát triển của báo chí. Do vậy phần lớn các tác phẩm xuất hiện dưới dạng feuilleton. Tiểu thuyết feuilleton mang những đặc tính xã hội giống tiểu thuyết chương hồi: bình dân, đại chúng. Về phương diện nghệ thuật, chúng có sự gặp gỡ ở việc chú trọng xây dựng cốt truyện tự sự, các thủ pháp mô tả nhân vật Đặc biệt trong tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX có sự thẩm thấu của dạng thức feuilleton và chương hồi và rất hấp dẫn đại chúng. Từ những vấn đề đã đặt ra, chúng tôi cho rằng văn học đại chúng phải trở thành đối tượng quan trọng của các nhà nghiên cứu. ABSTRACT The issues of mass literature: a comparative study of pre-1945 novel – feuilleton and the novel of chinese classical style (zhanghui xiaoshuo) in southern vietnam The formation of southern Vietnam novel was closely connected with the development of press and newspaper, for this reason, most of novels was feuilletonistic. Novel-feuilleton was closed to traditional novel of Chinese style (zhanghui xiaoshuo), because both tended to describing social side of common people. In poetic regard, both feuilleton and zhanghui xiaoshuo paid attention to plot and and character description. There were mixed forms of novel- feuilleton and zhanghui xiaoshuo, which very much attracted common readers in literature of Southern Vietnam in the early 20th century. Therefore, we assume that the mass literature should be an important subject for studies. * * * Văn học đại chúng (Mass literature) ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại. Văn học đại chúng có mục đích giải trí, phục vụ một lớp người bình dân, chiếm đa số trong xã hội. Văn học đại chúng, theo nghĩa rộng bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện tranh, thi ca bình dân, kịch bản phim truyền hình, gắn liền với sự phát triển của các phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh. Trong đó tiểu thuyết là thể loại chủ lực của văn học đại chúng. * 2Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn học đại chúng: “Còn gọi là văn học thông tục. Bộ phận văn học giải trí và giáo huấn được in với số lượng lớn, phổ biến từ cuối thế kỷ XIX và nhất là thế kỷ XX... Cơ sở tư tưởng của văn học đại chúng là chủ nghĩa thực dụng. Cơ sở xã hội của văn học đại chúng là chính sách nhượng bộ đối với lớp thị dân tầm thường: dùng phương tiện sản xuất hàng loạt để nuôi dưỡng tâm lý tiêu dùng, làm nguội lạnh tính công dân tích cực của quần chúng. Văn học đại chúng không có quan hệ trực tiếp với lịch sử văn học như là nghệ thuật ngôn từ, nhưng nó là một thành tố của quá trình văn học thế kỷ XIX – XX... Điểm mấu chốt của văn học đại chúng là làm cho người ta được can dự vào văn hóa hiện đại dưới dạng lược gọn, nó đưa ra một thế phẩm cho sự thỏa thuận thẩm mĩ. Thi pháp của nó là rập khuôn nhất là cách tả chân dung và tâm lý nhân vật, ở vần thơ và cốt truyện...” (1). Bàn về Tiểu thuyết đại chúng và đại chúng văn học, nhà phê bình Kiều Thanh Quế (1914-1947) cho rằng: “Đại chúng là bao gồm tất cả hạng dân tầm thường trong một nước Tiểu thuyết ngày nay cũng nằm trong văn học đại chúng. Tiểu thuyết của đại chúng không thiên trọng về lối phô diễn cầu kỳ. Tánh chất, giá trị của nó là giản dị, đẹp và thật: dùng rất ít lời văn mà tả nên bức tranh linh hoạt đầy thi vị. Đó là yếu tố của đại chúng văn học Tiểu thuyết đại chúng không vị nghệ thuật mà vị nhân sinh. Vị nghệ thuật là chú trọng ở lời văn. Vị nhân sinh là chú trọng ở hứng thú. Đại chúng là hạng người lao khổ, cả ngày vất vả với sống còn. Một khi được thảnh thơi mó đến quyển tiểu thuyết họ không cần gì hơn được tìm trong ấy một vài hứng thú, để qua những giờ nhàn rỗi vô vị. Tiểu thuyết đại chúng hiện có mấy loại: 1. Trinh thám tiểu thuyết, 2. Lịch sử tiểu thuyết, 3. Võ hiệp tiểu thuyết, 4. Diễm tình tiểu thuyết, 5. Phiêu lưu tiểu thuyết, 6. Giáo dục tiểu thuyết, 7. Xã hội tiểu thuyết” (2). Nhà phê bình cũng cho biết thêm những loại tiểu thuyết vừa kể trên ở Âu Mỹ đều có đủ, đặc biệt là ở nước Anh. Đồng thời Kiều Thanh Quế xếp các tiểu thuyết của Thế Lữ, Phạm Cao Củng vào loại trinh thám; tiểu thuyết Phú Đức vào loại võ hiệp; tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Lan Khai vào loại lịch sử; tiểu thuyết của Song An, Khái Hưng, Nhất Linh vào loại diễm tình; tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương vào loại xã hội. Những ý kiến của Kiều Thanh Quế cho thấy sự ảnh hưởng của tiểu thuyết đại chúng phương Tây đến nền tiểu thuyết Việt Nam. Và có lẽ Kiều Thanh Quế đã tiếp nhận được các đánh giá phẩm bình của các nhà nghiên cứu phê bình phương Tây để vận dụng vào trường hợp Việt Nam. Tiếc rằng, trong đánh giá xếp loại, nhà nghiên cứu chỉ thiên về các tác giả đất Bắc. Nguyễn Nam Trân trong Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, chương Văn học đại chúng Nhật Bản hiện đại cho biết: “Từ điển Kôjien của Nhật định nghĩa văn học đại chúng như một hình thức đối lập với văn học thuần túy và nhắm quần chúng độc giả bình dân. Trong loại này có thể kể đến các loại tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết trinh thám (người Nhật gọi là tantei tức “thám trinh”, suiri hay suy lý, deduction), tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết tình cảm có tính chất gia đình hay yếu tố khôi hài” (3). Nguyễn Nam Trân đã khảo sát văn học đại chúng Nhật Bản ở các thể loại: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tân thời, tiểu thuyết trinh thám và suy luận, tiểu thuyết khoa học giả tưởng. Trong quan niệm của ông, văn học đại chúng có nghĩa định lượng hơn định tính, nhằm chỉ một lớp người khá thuần nhất về mặt văn hóa, không có đặc tính gai cấp và hầu như cấu thành bởi lớp người trung lưu, chiếm đa số trong xã hội Nhật giai đoạn kỹ nghệ hóa. 3Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã dùng khái niệm “văn học thông tục” hay “tục văn học” để chỉ bộ phận văn học có tính bình dân, đại chúng, đối lập với bộ phận văn học chính thống bác học. Về thể loại, văn học thông tục Trung Quốc bao gồm: dân ca, ca dao, truyền thuyết, truyện cười, câu đố, khúc, các loại tiểu thuyết thông tục, giảng sử, thoại bản, v.v Như vậy, văn học đại chúng có những vấn đề lý luận và thực tiễn đáng chú ý sau: Thứ nhất, văn học đại chúng ra đời và phát triển gắn liền với các loại phương tiện truyền thông đại chúng, phục vụ những cá nhân ở đô thị. Ở phương Đông, văn học đại chúng phát triển từ cội nguồn văn học dân gian, cùng với sự lớn mạnh của các đô thị và thể loại quan trọng là tiểu thuyết thông tục, trong đó tiểu thuyết chương hồi có một vị trí hết sức quan trọng. Thứ hai, văn học đại chúng có các đặc điểm đáng chú ý là viết về cuộc sống đời thường, trình bày đơn giản, hướng đến người đọc rộng lớn và có tính chất giải trí. Thứ ba, văn học đại chúng là một thành tố của quá trình văn học và khó có thể phân định rạch ròi ranh giới giữa văn học thuần túy và văn học đại chúng. Vấn đề xác định những tác phẩm nào thuộc về văn học đại chúng, loại nào thuộc văn học thuần túy và loại nào có tính chất trung gian là cần thiết trong nghiên cứu đánh giá nhưng không mấy dễ dàng. Môi trường văn học đại chúng có ưu thế lan tỏa, dễ tạo nên sự nổi tiếng đã khuyến khích nhiều tác giả thuộc dòng văn chương thuần túy ghé qua. Cũng có tác giả viết văn chương đại chúng nhưng nhờ tài năng nghệ sĩ, tác phẩm lại trở thành văn chương thuần túy và theo thời gian trở thành cổ điển. Do vậy, công việc viết văn học sử không chỉ đề cập đến những tác phẩm thuộc dòng văn chương thuần túy mà cần chú ý đền dòng văn chương đại chúng. * Văn học Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – 1945 xuất hiện dòng văn chương đại chúng bên cạnh văn chương thuần túy. Văn chương Nam Bộ buổi đầu gắn với sự ra đời của báo chí. Báo chí buổi đầu đã cho thấy khả năng phổ biến thông tin và giải trí vô cùng to lớn trong xã hội hiện đại. Nhiều tờ báo ở Nam Bộ đã chọn lớp người chiếm số đông trong xã hội là người lao động bình dân để phục vụ. Giá bán của một tờ báo thường lấy giá của một li cà phê sáng của một người lao động bình thường trong xã hội làm chuẩn. Nhà văn Sơn Nam cho rằng, làm báo thời kì đầu là nghệ thuật quản lí, vì toà soạn giống như một xí nghiệp, nuôi sống công nhân, người làm báo, ngoài số kí giả, nhà văn. Các báo muốn tồn tại được cần hướng đến lớp độc giả đông đảo là những người lao động bình dân ngoại trừ các tờ báo được sự bảo hộ của nhà cầm quyền phục vụ cho mục đích chính trị. Mỗi tờ báo muốn thu hút người đọc cần phải đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, ưu tiên tính chất thông tin và khoa học, cách trình bày đơn giản và dễ hiểu. Lần mở lại các tờ báo thời kì đầu chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Bên cạnh các bài biên khảo, tin tức thời sự, chiến sự, tiểu thuyết đăng nhiều kì (cả loại sáng tác và dịch), để lộn xộn bên những bài quảng cáo, rao vặt, hiếu hỉ. Dần dà, các mục tiểu thuyết (dạng feuilleton) trên báo ngày càng được chú ý trau chuốt, chăm sóc, vì đây là điểm nhấn quan trọng thu hút độc giả. Một số tờ báo về sau đã phát huy tốt điều này khi dành cho tiểu thuyết một vị trí quan trọng trên tờ báo, chẳng hạn như các tờ Phụ nữ tân văn, Lục tỉnh tân văn, Trung lập, Công luận, Bình dân, Đuốc nhà Nam. Theo Nguyễn Thị Thanh Xuân “Chúng ta đã biết, 4báo chí làm nên phê bình văn học, nhưng ở Nam Bộ đầu thế kỷ, báo chí cũng làm nên tiểu thuyết. Và như vậy, vượt ra khỏi tính chất là một phương tiện thông tin, báo chí Việt Nam lúc bấy giờ đã là một sân chơi văn học dành cho đại chúng” (4). Có điều lạ, các tiểu thuyết sau khi đã đăng báo được in lại thành sách vẫn còn thu hút độc giả. Có sự tương đồng trong quá trình hiện đại hóa văn học giữa Việt Nam và Nhật Bản khi nền văn học mới bắt đầu gắn với báo chí và thể loại chủ lực là tiểu thuyết. Tiểu thuyết feuilleton ở Nhật xuất hiện khá sớm vào những năm đầu thời Minh Trị (Meiji). Báo chí Nhật thời này được chia làm ba loại: loại đại tân văn (báo lớn) nhắm đến độc giả trí thức, nặng về chữ Hán, nội dung bình luận về chính trị, thời cuộc; loại trung tân văn (báo vừa) nhắm đến số lượng lớn độc giả trong xã hội; loại tiểu tân văn (báo nhỏ) dành cho người đọc ít học, viết bằng chữ quốc ngữ hiragana. Theo Nguyễn Nam Trân “những tiểu thuyết đăng nhiều kỳ (romans-feuilletons) trước tiên đăng trên các loại báo nhỏ nhưng sau đó đã ăn lan sang các loại báo khác khi kiểu thương mãi này chứng tỏ được độc giả ưa chuộng” (5) . Tiểu thuyết feuilleton mang những đặc tính xã hội giống tiểu thuyết chương hồi: bình dân, đại chúng. Chúng tôi coi tính chất bình dân, hướng về đại chúng của văn học là một biểu hiện của cận đại hóa. Khi văn học từ hệ hình chú trọng chủ yếu chức năng thù tạc, quà tặng chuyển sang hệ hình mới mang chức năng giải trí thuần túy hướng tới số đông. Với văn học Nam Bộ, nói riêng bộ phận tiểu thuyết, đặc tính này cho thấy tính chất hiện đại sớm. Tiến hành những so sánh giữa tiểu thuyết feuilleton ở Nam Bộ trước 1945 (6) và tiểu thuyết chương hồi (ở đây xin hiểu là những tiểu thuyết chương hồi cổ điển Trung Quốc) chúng tôi hướng đến lý giải những tương đồng và khác biệt ở góc độ loại hình: một loại là sản phẩm điển hình của văn học có tính chất thông tục của phương Đông và một loại tiêu biểu cho tính chất đại chúng trong văn học của phương Tây. Riêng ở Nam Bộ, cần tính đến một thực tế là trước khi tiếp xúc và vận dụng kỹ thuật của phương Tây thì tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc đã trở thành hình mẫu. Dưới đây là những phác thảo sơ bộ của chúng tôi. 1. Môi trường tồn tại của tiểu thuyết và vấn đề độc giả Môi trường tồn tại của tiểu thuyết chương hồi vốn ở không gian mở như: góc chợ, bến đò. Không gian tồn tại đó tiêu biểu cho một kiểu sinh hoạt văn học cũ: kể - nghe và xem. Ở đây nảy sinh một vấn đề liên quan đến văn hóa tiền văn bản là việc mỗi lần nghệ nhân kể chuyện cũng là lúc anh ta đã tháo dỡ cấu trúc và tái cấu trúc truyện kể. Kể cả khi các thoại bản được các trí thức “điển nhã hóa” thì hình thức sinh hoạt văn chương này vẫn còn tiếp diễn. Kiểu sinh hoạt thời tiền văn bản vẫn được ưa thích có lẽ phần lớn độc giả không thể đọc sách (việc học chữ là một khó khăn, số lượng ấn bản tác phẩm chắc chắn còn hạn chế). Cũng không loại trừ một khả năng nằm trong bản chất của tự sự chương hồi vốn hấp dẫn bằng “lối kể”, và được đồng tạo tác bằng “kiểu kể”. Ở Nam Bộ, Truyện Lục Vân Tiên cuối thế kỷ XIX – đầu XX có thể là đã tồn tại theo kiểu sinh hoạt văn chương chương hồi. Tựa trên một cơ sở xã hội khác với môi trường tiểu thuyết chương hồi. Môi trường tồn tại của tiểu thuyết Feuilleton ở Nam Bộ là báo chí. Hình thức này đã dẫn đến kiểu sinh hoạt văn học mới có tích chất cá nhân: văn học gắn với hoạt 5động viết – đọc. Văn chương chịu sự chi phối rõ rệt của khuôn khổ tờ báo và hoạt động xuất bản. Nói cách khác, môi trường tồn tại của tiểu thuyết feuilleton là báo chí, gắn với một kiểu văn hóa mới: văn hóa đọc. Vấn đề người tiếp nhận của tiểu thuyết chương hồi và feuilleton cũng có nhiều điểm khá thú vị: cả hai đều hướng đến độc giả đại chúng, bình dân. Con đường phát triển của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc gắn liền với nhu cầu thưởng thức của công chúng bình dân, đặc biệt là tầng lớp thị dân thời Minh – Thanh. Độc giả của tiểu thuyết feuilleton ở Nam Bộ trước 1945 là đại chúng, bình dân ở đô thị có tính chất thuộc địa phương Tây. Cũng cần nhắc ở đây một vấn đề, có thể coi như đặc thù của Nam Bộ, đó là bên cạnh việc phát triển mạnh của tiểu thuyết feuilleton là trào lưu dịch thuật các bộ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc sang Việt ngữ. Thậm chí, bộ tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng Tam quốc diễn nghĩa đã được dịch và công bố dưới hình thức feuilleton trên Nông cổ mín đàm ngay từ số thứ nhất, ra ngày 1/8/1901. Từ thực tế đó chúng ta có thể đặt vấn đề sự ảnh hưởng qua lại giữa tiểu thuyết chương hồi và tiểu thuyết feuilleton ở Nam Bộ và không loại trừ khả năng các nhà văn ở ta sử dụng tốt kĩ thuật felleton vì đã quen với kĩ thuật chương hồi. 2. Phương diện thể tài Thể tài của tiểu thuyết chương hồi được các nhà nghiên cứu thừa nhận có các phương diện: “giảng sử” tiêu biểu cho loại này có Tam quốc diễn nghĩa; “yên phấn” tiêu biểu cho loại này có Hồng Lâu Mộng; “linh quái” tiêu biểu cho loại này có Tây du ký; “anh hùng thảo dã” tiêu biểu cho loại này có Thủy hử truyện; “phúng dụ” tiêu biểu cho loại này có Nho lâm ngoại sử, v.v... Trong các bộ phận trên thì thể tài giảng sử chiếm một số lượng lớn các tác phẩm chương hồi. Đề tài “yên phấn”, “phúng dụ” xuất hiện muộn hơn gắn liền với sự lớn mạnh của tầng lớp thị dân Trung Hoa. Riêng với Hồng lâu mộng, tiểu thuyết này đã báo hiệu một nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ mới của công chúng: chuyển từ văn hóa nghe sang văn hóa đọc. Thể tài của tiểu thuyết feuilleton Nam Bộ trước 1945 khá đa dạng nhưng tiêu biểu có: Tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết võ hiệp, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết xã hội. Tiểu thuyết trinh thám feuilleton ở Nam Bộ trước 1945 có các nhà văn như Biến Ngũ Nhy (1886 - 1963) với các bộ Mật thám truyện, Kim thời dị sử (Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, Chủ nợ bất nhơn), Phú Đức (1901 – 1970) với các bộ Châu về hiệp phố, Lửa Lòng, Non tình biển bạc, Tình trường huyết lệ, Phi Long (? - ?) với bộ Thùng thơ bí mật. Nam Đình Nguyễn Thế Phương (1906 – 1978) lại chuyên viết tiểu thuyết về vụ án với các bộ Túy hoa đình, Vô oan trái, Chén thuốc độc... Nhà văn Nguyễn Thế Phương đồng thời cũng là phóng viên pháp luật. Trong những nhà văn viết trinh thám feuilleton thì Phú Đức là nhà văn tiêu biểu nhất: số lượng tác phẩm lớn, bán chạy và sự nổi tiếng. “Chúng ta chưa có điều kiện để trả lời câu hỏi: ai là người đầu tiên đăng tiểu thuyết feuilleton trên báo Việt Nam, nhưng chúng ta có thể khẳng định, Phú Đức là một trong những người thành công nhất với tiểu thuyết feuilleton. Vậy nếu không có báo chí, chưa hẳn đã có một Phú Đức. Và ngược lại Phú Đức cũng làm sôi động báo chí một thời” (7). Phú Đức khiến người ta nghĩ đến kiểu nhà văn chuyên nghiệp của phương Tây. 6Tiểu thuyết trinh thám feuilleton nội địa đầu tiên được biết đến là Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy. Tuy vậy, “Kim thời dị sử” chính là một mục trên Công luận báo chứ không phải là tên tác phẩm. Chính sự hấp dẫn của đề mục feuilleton này mà khi in sách tác giả đã sử dụng lại. Với Kim thời dị sử, chúng ta thấy có sự gặp gỡ giữa feuilleton và chương hồi ở ý niệm: “Vô Kỳ Bất Truyền”. Từ thành tựu bước đầu là Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy cho đến những sáng tác của Phú Đức giai đoạn sau, tiểu thuyết Nam Bộ đã tạo ra một dòng tiểu thuyết trinh thám đích thực cho văn học Việt Nam hiện đại. Loại võ hiệp tiêu biểu với các sáng tác của Nguyễn Chánh Sắt (1869 – 1947) với Giang hồ nữ hiệp (1928), Một đôi hiệp khách (1929)và một phần nào đó là Phú Đức với Tiểu anh hùng võ kiết (1929), Một thanh bửu kiếm (1930) đây là loại tiểu thuyết chịu ảnh hưởng từ tiểu thuyết võ hiệp chương hồi của Trung Quốc. Loại tiểu thuyết lịch sử dịch có Tiền căn báo hậu (Le Comte de Monte Christo của Alexandre Dumas) đăng trên Lục tỉnh tân văn năm 1907 và Ba chàng ngự lâm pháo thủ (Les trois mousquetaires) đăng trên Lục tỉnh tân văn năm 1914 – cả hai đều do Trần Chánh Chiếu (1867-1919) dịch. Tiền cắn báo hậu được in thành sách vào năm 1914. Tiểu thuyết lịch sử dịch và chương hồi gống nhau ở tính chất sử. Thế nhưng tiểu thuyết chương hồi thường thoát thai từ các thoại sử trong lúc yếu tố sử trong feuilleton là dã sử: không gian thời gian là lịch sử, nhưng nhân vật là người thường, hấp dẫn bởi tính chất võ hiệp kỳ tình. Tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc bình dân, trong lúc tiểu thuyết lịch sử Tây lại đại chúng. Có một chi tiết cần chú ý là những tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn Nam Bộ không thấy đăng feuilleton. Phải chăng các nhà văn này cảm thấy trách nhiệm xã hội quan trọng của mình và cần nói “một cách nghiêm túc”, viết văn với một sứ mệnh hướng đạo quần chúng. Hay là trong một tình thế lấn lướt của truyện Tàu thì việc công bố theo hình thức feuilleton là không phù hợp. Tiểu thuyết xã hội feuilleton mang tính chất phong tục đạo lý có các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) như Chúa tàu kim quy (Công luận báo năm 1922-1923), Cay đắng mùi đời (Đông Pháp thời báo năm 1923), Nhơn tình ấm lạnh (Đông Pháp thời báo năm 1926), Cha con nghĩa nặng (Phụ nữ tân văn năm 1929); loại tiểu thuyết xã hội mang tính chất tính dục có Hà Hương phong nguyệt (Truyện nàng Hà Hương đăng trên Nông cổ mín đàm từ năm 1912 đến 1915) của Lê Hoằng Mưu (1879 – 1942). Ngoài ra nhiều cuốn tiểu thuyết có tính chất xã hội của Lê Hoằng Mưu đáng chú ý như Hồ Thể Ngọc (Nông cổ mín đàm năm 1916 và Công luận báo năm 1917-1918), Oan kia thao mãi (Lục tỉnh tân văn năm 1920 – 1921), Đầu tóc mượn (Lục tỉnh tân văn năm 1924), Đêm rốt người tội tử hình (Lục tỉnh tân văn năm 1925) Riêng loại tiểu thuyết có tính chất chính trị chưa thấy xuất hiện trong giai đoạn này. Có thể thấy, điển hình của tiều thuyết feuilleton là truyện vụ án – phá án. Điển hình của tiểu thuyết chương hồi phương Đông là truyện lịch sử, võ hiệp. 3. Kĩ thuật tự sự Về phương diện nghệ thuật, tiểu thuyết feuilleton và tiểu thuyết chương hồi có nhiều điểm tương đồng khi chú trọng xây dựng cốt truyện tự sự, các thủ pháp mô tả nhân vật, v.v 7Hình thức chương hồi định hình rõ và có tính nguyên tắc trong lúc hình thức feuilleton có tính mềm dẻo hơn. Xuất phát từ những thoại bản, những đơn vị chương hồi thường kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này dẫn đến lối kết cấu của tiểu thuyết chương hồi tương đối khuôn mẫu: toàn bộ câu chuyện được chia thành nhiều hồi khác nhau, mối quan hệ giữa các hồi có tính chất vừa “khép” vừa “mở”, vừa có tính “liên tục” vừa “gián cách”. Lối kết cấu này có thể giúp tác giả xâu chuỗi các sự kiện, các tình tiết có liên quan đến cốt truyện và nhân vật để tạo thành một chỉnh thể của tác phẩm. Trong đó mỗi hồi có thể là một câu chuyện, một tình tiết tập trung làm nổi bật nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Trước mỗi hồi thường có hai câu thơ hoặc vài dòng đề từ nhằm tóm tắt nội dung chính của hồi đó. Kết thúc mỗi hồi, tác giả thường đẩy sự việc đế
Tài liệu liên quan