Nợ công - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công tại Việt Nam

Có thể nói, nợ công (NC) là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính của mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở Châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Lào, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. NC cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng NC có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất kỳ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù đã có nhiều nhà kinh tế đưa ra các giải pháp nhằm quản lý tốt NC, nhưng cho đến nay NC vẫn là tâm điểm nóng được dư luận thế giới quan tâm. Để góp phần tìm ra lời giải đáp cho bài toán NC, tác giả giới thiệu quan điểm về NC của một số tổ chức trên thế giới và các yếu tố đánh giá mức độ an toàn NC. Từ đó liên hệ thực trạng NC Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó tác giả xin đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý NC ở Việt Nam. Từ khoá: Thực trạng nợ công, giải pháp quản lý nợ công, ngưỡng an toàn nợ công.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nợ công - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 83 NỢ CÔNG - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN L NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM CN. Nguyễn Thị Ngọc Lê Khoa Kinh tế, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Có thể nói, nợ công (NC) là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính của mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở Châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Lào, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của Chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. NC cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng NC có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất kỳ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù đã có nhiều nhà kinh tế đưa ra các giải pháp nhằm quản lý tốt NC, nhưng cho đến nay NC vẫn là tâm điểm nóng được dư luận thế giới quan tâm. Để góp phần tìm ra lời giải đáp cho bài toán NC, tác giả giới thiệu quan điểm về NC của một số tổ chức trên thế giới và các yếu tố đánh giá mức độ an toàn NC. Từ đó liên hệ thực trạng NC Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó tác giả xin đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý NC ở Việt Nam. Từ khoá: Thực trạng nợ công, giải pháp quản lý nợ công, ngưỡng an toàn nợ công. 1. Quan niệm về nợ công NC rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào vì nó là nguồn tài chính quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng sẽ xem xét đến NC khi quyết định đầu tư vốn. Vì vậy để sử dụng và quản lý NC có hiệu quả chúng ta cần hiểu NC là gì? NC bao gồm các khoản nợ nào? NC là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, NC là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ NC thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, NC hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, NC chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia. Tuy nhiên, xoay quanh khái niệm và nội hàm NC vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): - NC theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). - Theo nghĩa hẹp, NC bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương, Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 84 các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán. Quan niệm về NC của WB và IMF cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc, bao gồm: - Nợ của Chính phủ trung ương và các bộ, ban, ngành trung ương. - Nợ của các cấp chính quyền địa phương. - Nợ của ngân hàng trung ương. - Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ. Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về NC ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Ở Việt Nam theo Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12, NC được quy định trong Luật này bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó: - Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. - Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. - Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Như vậy quan niệm về NC theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Tóm lại, có thể khái quát NC là toàn bộ các khoản vay nợ của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương tại một thời điểm nào đó. 2. Các yếu tố đánh giá mức độ an toàn nợ công Xuất phát từ sự khác biệt trong quan niệm về NC mà cách xác định NC của Việt Nam nói riêng và các quốc gia, tổ chức trên thế giới nói chung cũng khác nhau. Điều này góp phần giải thích cho những con số NC được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế và Việt Nam rất khác nhau. Chính vì số liệu NC đưa ra khác nhau dẫn đến tiêu chuẩn hay nói cách khác các yếu tố đánh giá mức độ an toàn NC cũng khác nhau. Hiện nay trên thế giới chưa có tiêu chuẩn chung về ngưỡng an toàn NC để áp dụng cho tất cả các nước. Mặc dù vậy, khi đánh giá mức độ an toàn NC của một quốc gia thì Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung thường căn cứ vào các yếu tố sau đây: - Thứ nhất, tỷ lệ NC trên tổng sản phẩm quốc nội (NC/GDP) Đây là một trong những yếu tố đầu tiên được nhắc đến khi đánh giá mức độ hay ngưỡng an toàn NC của mỗi quốc gia. Tùy theo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nước sẽ đưa ra mức trần NC/GDP khác nhau, ví dụ: Việt Nam Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 85 đưa ra mức trần NC/GDP là 65%, các nước EU quy định hạn mức trần NC áp dụng chung trong khối là dưới 60% GDP... Và mức trần NC/GDP mà nước đó đưa ra được xem là ngưỡng an toàn NC. Hiểu một cách thuần túy nếu NC của nước đó tiến gần sát hoặc chạm mức trần NC/GDP thì được đánh giá là vẫn nằm trong giới hạn nhưng lúc này nó đã bắt đầu tác động đến nền kinh tế, có nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng NC. Còn nếu NC vượt mức trần NC/GDP thì quốc gia đó rơi vào tình trạng vỡ NC và cuộc khủng hoảng NC tất yếu sẽ xảy ra. Tuy nhiên, một nghịch lý đó là nhiều nước trên thế giới có tỷ lệ NC/GDP rất cao và vượt trần nhưng vẫn không rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Theo số liệu do “The Economist” cập nhật tính đến đầu tháng 3/2013, những khu vực và quốc gia có tổng mức NC tuyệt đối cao nhất hiện nay là Bắc Mỹ, Brazil, Châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Australia. Trong đó, Nhật Bản là nước có số NC khổng lồ nhất với tỷ lệ NC/GDP là 226,1%. Nhiều quốc gia trong EU cũng đang có mức NC hàng nghìn tỷ USD như Đức nợ gần 2,7 nghìn tỷ USD (tương đương 83% GDP); Ý nợ trên 2,4 nghìn tỷ USD (tương đương 120,8% GDP); Pháp nợ hơn 2,3 nghìn tỷ USD (tương đương 90,5% GDP); trong khi Argentina NC chỉ 45,9% nhưng lại vỡ nợ. Vì vậy, ngày càng có nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ NC/GDP không thể phản ánh toàn diện mức độ an toàn của tình hình NC một nước. Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư NC được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mà vì lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy khi vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ làm gia tăng sản lượng cho nền kinh tế, đời sống xã hội của cộng đồng được nâng cao. Hay nói cách khác khi sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả sẽ tạo ra lợi nhuận và khi có lợi nhuận, có thặng dư thì sẽ không phải lo lắng về khủng hoảng NC. Ngược lại, nếu sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả sẽ gây ra thất thoát, lãng phí dẫn đến thua lỗ. Nếu kéo dài tình trạng trên thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của NC trong tương lai. Điều này góp phần giải thích vì sao các nước có tỷ lệ NC/GDP cao như Nhật Bản hay một số nước trong EU vẫn không bị vỡ nợ. Thứ ba, người nắm giữ khoản nợ (chủ nợ) Ai nắm giữ các khoản nợ cũng là một yếu tố quan trọng. Một quốc gia mà chủ nợ là người trong nước chiếm đa số thì bao giờ NC cũng được đánh giá là an toàn hơn những nước mà phần lớn chủ nợ là người nước ngoài. Chẳng hạn, NC của Nhật Bản được đánh giá an toàn vì có tới 95% chủ nợ là người trong nước, đa phần trái phiếu Chính phủ Nhật Bản được các nhà đầu tư trong nước nắm giữ. Do đó ít phụ thuộc vào giới đầu tư trái phiếu quốc tế, giữ được thị trường trái phiếu bình ổn. Trong khi đó, Hy Lạp nhanh chóng chìm vào khủng hoảng NC vì có tới 70% chủ nợ là người nước ngoài. Thứ tư, niềm tin Yếu tố niềm tin hay uy tín của một quốc gia cũng góp phần đánh giá mức độ an toàn NC của quốc gia đó. Bởi niềm tin là yếu tố quan trọng trong việc Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 86 gây ra cuộc khủng hoảng NC. Do đó, khi giới đầu tư quốc tế tin vào thể chế chính trị, chính sách điều hành kinh tế - xã hội của quốc gia đó thì khó có thể xảy ra cuộc khủng hoảng NC. Mặt khác, mỗi quốc gia sẽ có chi phí vay mượn khác nhau, xuất phát từ niềm tin của giới đầu tư quốc tế đối với quốc gia đó. Điều này có nghĩa là quốc gia nào có uy tín cao trên trường quốc tế thì sẽ được vay với lãi suất và chi phí thấp hơn những quốc gia có uy tín thấp. Trên đây là các yếu tố cơ bản nhằm đánh giá mức độ an toàn NC của một nước. Tuy nhiên, để đánh giá một cách tổng quát thì ngoài các yếu tố trên còn phải căn cứ vào việc đánh giá thực trạng nợ, tình hình kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính - tiền tệ, hệ số tín nhiệm của quốc gia và có thể tham khảo khuyến nghị của IMF và WB về ngưỡng an toàn nợ nước ngoài theo phân loại chất lượng khuôn khổ thể chế và chính sách. 3. Thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay Bảo đảm an toàn và bền vững NC đã trở thành bài toán mà đa số các quốc gia đều phải tính đến và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, để có lời giải cho bài toán đảm bảo an toàn NC ở Việt Nam thì trước tiên cần phải hiểu thực trạng NC của Việt Nam hiện nay như thế nào? Trong những năm qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam còn dựa nhiều vào đầu tư công, tỷ lệ này luôn ở mức cao nhưng hiệu quả mang lại từ hoạt động đầu tư công ngày càng giảm sút, lợi ích tăng trưởng và tăng thu ngân sách chưa bù đắp được các chi phí liên quan đến gia tăng đầu tư công và NC. Mặt khác, trong những năm gần đây cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, NC khu vực EU và những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước đã có ảnh hưởng nhất định đến tình hình NC của Việt Nam cả về quy mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả nợ và các chỉ số an toàn NC. Theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ trong kỳ họp Quốc hội mới đây (tháng 10/2014) thì NC của Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng ngày càng tăng cả về quy mô và cơ cấu. Nếu như năm 2012 tỷ lệ NC/GDP chiếm 50,8% thì đến cuối năm 2013 NC bằng 54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%, nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%). Năm 2014 NC tăng cao lên đến 60,3% GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%). Dự kiến năm 2015 NC sẽ là 64% GDP, gần chạm mức trần NC là 65%. Lý giải về tình hình NC tăng nhanh trong những năm qua có hai nhóm nguyên nhân: - Về khách quan, những năm gần đây, kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng, tốc độ phục hồi chậm và NC của khu vực EU ở mức báo động đã tác động không nhỏ đến tình hình NC của Việt Nam. - Về chủ quan, có thể kể đến: Thứ nhất, nhu cầu chi tăng mạnh trong thời gian vừa qua, đặc biệt là chi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chi cho con người và cho an sinh xã hội. Thực trạng kết cấu hạ tầng của nước ta còn yếu kém, nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện đột phá chiến lược về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và áp lực cạnh tranh, hội nhập Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 87 quốc tế không ngừng gia tăng là nguyên nhân tăng các khoản vay để bổ sung cho đầu tư. Thứ hai, bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) cao, kéo dài và có xu hướng gia tăng. Chỉ tính riêng trong năm 2013, bội chi NSNN là 4,8 % GDP thì đến năm 2014 con số này là 5,3% GDP. Trong khi tỷ trọng thu ngân sách năm 2014 thấp hơn cùng kỳ năm 2013 nhưng Nhà nước vẫn phải có biện pháp miễn, giảm, gia hạn thuế để hỗ trợ doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động vào NSNN. Khi bội chi NSNN tăng thì NC cũng sẽ tăng lên tương ứng. Thứ ba, chi phí NC tăng lên trong những năm vừa qua cũng góp phần làm gia tăng NC. Từ năm 2010, việc tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi (ODA) khó khăn hơn do Việt Nam thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam đã phải chuyển sang các nguồn vốn vay thương mại với lãi suất cao hơn và các điều kiện vay khắt khe hơn, điều này làm gia tăng chi phí trả nợ hằng năm. Thứ tư, lượng vốn huy động qua kênh phát hành trái phiếu Chính phủ tăng nhanh. Trong bối cảnh nguồn ngân sách bố trí cho trả nợ và đầu tư phát triển rất hạn hẹp nhưng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện đột phá chiến lược là rất lớn. Do đó, việc duy trì huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ là cần thiết. Năm 2013, khối lượng trái phiếu Chính phủ huy động được đạt 143.021 tỷ đồng, năm 2014 trái phiếu Chính phủ đạt kỷ lục mới với khối lượng huy động được là 234.067 tỷ đồng, tăng 63,7% so với năm 2013. Thứ năm, chính sách mở rộng phạm vi, đối tượng bảo lãnh của Chính phủ cho doanh nghiệp vay vốn góp phần làm NC tăng cao. Phạm vi bảo lãnh của Chính phủ rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh như sản xuất thép, xi măng, điện, cảng biển, năng lượng, y tế và các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng... Như vậy, với thực trạng NC Việt Nam gia tăng như hiện nay, liệu có nguy hiểm không? Hay nói cách khác NC của Việt Nam đang ở ngưỡng nào? Có an toàn hay không? Có rất nhiều chuyên gia kinh tế bày tỏ sự lo lắng trước tình hình NC có xu hướng tăng nhanh, rủi ro cao và đang ở mức báo động; áp lực trả nợ rất lớn trong khi năng lực trả nợ của Nhà nước không cao. Nếu theo cách tính NC của WB và IMF thì NC ở Việt Nam hiện nay đã vượt trần. Tuy nhiên, như tác giả có phân tích ở trên, hiện nay chưa có một tiêu chuẩn chung nào để xác định ngưỡng an toàn NC cho tất cả các nước. Mỗi quốc gia sẽ đưa ra ngưỡng NC khác nhau tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước mình. Do vậy, có thể nói NC Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, tại Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược NC và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định các chỉ tiêu an toàn về NC và nợ nước ngoài của quốc gia như sau: NC đến năm 2020 không quá 65% GDP, trong đó dư nợ chính phủ không quá 55% GDP và nợ nước ngoài của Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 88 quốc gia không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại) so với tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25% và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia hàng năm dưới 25% giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, về chiến lược nợ, trước đây chúng ta quản lý nợ mang tính thụ động thì giờ chúng ta đã chủ động. Tất nhiên, chiến lược này sẽ điều chỉnh theo từng thời kỳ. Và với các số liệu mà Thủ tướng Chính phủ công bố vào tháng 10/2014 vừa qua chiếu theo các quy định trên thì tổng số NC của Việt Nam vẫn ở ngưỡng an toàn. Thứ hai, nếu như trước đây tỷ trọng nợ nước ngoài ở Việt Nam luôn cao hơn nợ trong nước thì trong những năm gần đây nợ trong nước có tỷ trọng cao hơn nợ nước ngoài và có xu hướng ngày càng tăng, từ 40,3% năm 2010 lên 54,5% tổng dư NC năm 2014. Điều này góp phần làm giảm rủi ro về tỷ giá và sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, góp phần bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Thứ ba, đó chính là uy tín quốc gia. Theo cách tiếp cận mới mà WB và IMF thì các quốc gia có thể chế và chất lượng chính sách tốt sẽ có khả năng chống đỡ được mức nợ cao hơn. Theo đánh giá của WB, Việt Nam có chỉ số chất lượng thể chế và chính sách xếp loại tốt. Mặt khác, NC của Việt Nam bắt đầu tham gia vào bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia từ năm 2005. Chỉ số xếp hạng quốc gia sẽ đánh giá khả năng trả nợ quốc gia và mức độ uy tín quốc gia. Hiện nay, theo đánh giá của các tổ chức tín dụng lớn trên thế giới như Moody‟s, Standard & Poor'r, Fitch thì NC Việt Nam đều ở mức ổn định. Nếu so sánh với các nước trong khu vực như Indonesia, Philippin thì chỉ số tín nhiệm của chúng ta cao hơn. Thứ tư, tình hình kinh tế vĩ mô của nước ta đang dần ổn định trong hai năm qua, lạm phát được kiểm soát ở 4% - 6%, lãi suất cho vay liên tục được điều chỉnh giảm, tăng trưởng kinh tế được phục hồi với mức tăng bình quân trong ba năm (2012 - 2014) là 5,5%. Qua phân tích ở trên cho thấy dù còn nhiều khó khăn và thách thức phía trước, nhưng tính đến thời điểm này NC Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn. 4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công ở Việt Nam Từ thực trạng NC của Việt Nam có thể thấy NC nước ta vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, để đảm bảo tính bền vững cho NC trong tương lai thì cần có những giải pháp lâu dài nhằm quản lý NC có hiệu quả. Cụ thể: Một là, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi kèm với kiềm chế lạm phát. Ổn định vĩ mô là nền tảng căn bản, thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng đồng bộ sẽ là những yếu tố nội sinh quyết định lợi thế cạnh tranh dài hạn của nước ta, tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Hai là, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay, đặc biệt trong sử dụng vốn ODA, chúng ta phải khắc phục bất hợp lý và phải gắn kết từ khâu huy động đến khâu trả nợ. Đối với các chương trình, dự án đang triển khai cần rà soát, đánh giá và loại bỏ những dự án không hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí. Tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ đối với những dự án quan trọng, có hiệu Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 89 quả ưu tiên cao. Đối với những dự án bổ sung mới, cần được lựa chọn, có kế hoạch tài chính rõ ràng. Ba là, bảo đảm thu chi ngân sách hợp lý, công khai, minh bạch. Thu NSNN chủ yếu là từ nguồn thu thuế, do đó hệ thống thuế cần được cải cách bảo đảm các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng. Đối với chi NSNN, cơ cấu lại theo hướng cắt giảm và phân bổ lại các khoản chi thường xuyên của mình một cách hiệu quả, cụ thể là giảm thiểu đi cơ chế hành chính cồng kềnh đang là gánh nặng của nền kinh tế Việt Nam. Đối với chi đầu tư, Nhà nước chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực trọng điểm có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Bốn là, tiếp tục tái cơ cấu NC. Tái cơ cấu NC theo hướng tăng nhanh tỷ trọng vay dài hạn với lãi suất thấp, tăng tỷ trọng nợ trong nước và giảm nợ nước ngoài. Phát hành trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dài hơn và lãi suất hợp lý để vừa giảm thiểu rủi ro thanh toán, rủi ro thanh khoản vừa nhằm tái cơ cấu nợ. Kiểm soát chặt chẽ việc bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Năm là, hoàn thiện thể chế chính sách, bộ máy và công cụ quản lý NC phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, tiếp tục từng bước tăng cường cập nhật và công khai minh bạch hoá thông tin về NC thông qua việc xây dựng hệ thống thông tin theo dõi, giám sát và đánh giá bền vững nợ công. Sáu là, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và nghiên cứu để từng bước cải thiện hệ số t
Tài liệu liên quan