Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công.
Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ trong cơ cấu xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá.
Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị.
Hiện nay đất nước ta còn nghèo (thuộc nhóm thứ 3 thì việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường tất yếu. Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác định đây là thời kỳ phát triển mới - Thời kỳ "Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến "Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
22 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nội dung công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Phần mở đầu
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nước chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít nước công nghiệp hoá thành công.
Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ trong cơ cấu xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó. Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá.
Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị...
Hiện nay đất nước ta còn nghèo (thuộc nhóm thứ 3 thì việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường tất yếu. Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác định đây là thời kỳ phát triển mới - Thời kỳ "Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu "Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến "Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
B. Nội dung
I. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn.
Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có , nó do quá trình tính luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể. Thành tựu đạt được là do quy luật phát triển do tự thân vận động của con người trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc xây dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước, tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay (nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...) công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới:
- Xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Mới tiến hành tái sản xuất mở rộng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mới tích luỹ về lượng mới để xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Mới tăng cường phát triển lực lượng giai cấp công nhân.
- Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới ở Việt Nam.
Như vậy công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật cả các nước đi từ một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn.
2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành nước kiệt quệ đã trở thanh một trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70. Giai đoạn này sử dụng khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản xuất, phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất cả về con người và công cụ sản xuất.
Bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm ở các nước kinh tế phát triển là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng này được giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm 1950 đến 1970.
- Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui mô lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những phương tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao.
Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây cũng là thời kỳ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế.
Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về kinh tế, các nước phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các nước đang phát triển là đường lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách mạng về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đường nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao.
Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát triển nhẩy vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô xơ sang lao động bằng máy móc và chuyển lao động máy móc sang lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng XHCN.
II. Lý luận chung về CNH và khái quát lịch sử quá trình CNH ở Việt Nam
1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH)
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một khái niệm mà được nhiều chuyên gia kinh tế đề cập đến, nhiều nghiên cứu định nghĩa về vấn đề này. Lôgic và lịch sử đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc sớm muộn đều phải trải qua. Trong thời đại ngày nay công nghiệp hoá bao gồm cả hiện đại hóa làm xuất hiện cụm từ kép "công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Không nên chỉ hiểu CNH, HĐH theo nghĩa hẹp, theo nghĩa nó là một quá trình hình thành cách thức sản xuất chỉ tiêu kỹ thuật và công nghệ hiện đại riêng trong lĩnh vực tiểu công nghiệp mà nên hiểu theo nghĩa rộng: quá trình đó diễn ra trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Kinh nghiệm CNH ở nhiều nước trên thế giới cho thấy "cốt lõi" của CNH trong thời đại ngày nay là sự đổi mới trang bị kỹ thuật (phần cứng: máy móc thiết bị...) và công nghệ (phần mềm: phương pháp, quy tắc, quy trình, phương thức, kinh nghiệm, kỹ năng...), chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu năng suất thấp lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến có năng suất và hiệu quả kinh tế xã hội cao trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Theo tư duy và quan điểm mới hiện nay có thể hiểu nội dung chủ yếu của CNH ở các nước cũng như nước ta là: trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại và theo đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của nền KTQD. Tóm lại có thể hiểu là: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (1993) công nghiệp hoá là một quá trình phát triển nền kinh tế. Trong quá trình này nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Trong văn kiện hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương khoá VII có viết "Quá trình CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ và phương tiện hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ. Ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới. Như vậy CNH-HĐH không chỉ là một quá trình tất yếu khách quan đối với nước ta mà chúng ta có sẵn những cơ sở lý luận vững chắc để áp dụng vào thực tế nền kinh tế nước ta.
2. Khái quát lịch sử quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua
Có thể xem xét thực trạng CNH ở nước ta qua 2 khía cạnh trang bị kỹ thuật, công nghệ và việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trên thực tế công cuộc CNH được tiến hành ở nước ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960).
Chủ trương CNH được tiến hành qua các kế hoạch dài hạn 5 năm song do nhiều điều kiện khách quan gây khó khăn như nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu chính sách cấm vận gây thù địch của Mỹ, trình độ dân trí, nguồn lao động chưa cao v.v.. Thực trạng của quá trình CNH còn nhiều khó khăn.
Trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ kết cấu hạ tầng và việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất và dịch vụ còn thấp kém, lạc hậu.
Qua mấy thập niên CNH, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định. Cho đến nay một số công trình lớn và trọng điểm sau nhiều năm xây dựng và bắt đầu đưa vào hoạt động trong cả công nghiệp lẫn nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện v.v.. Tất nhiên so với trình độ của thế giới vẫn ở trong tình trạng còn thấp kém và lạc hậu: Thành phần kinh tế nhà nước được trang bị nhiều nhất, cao nhất có tổng số 27,8 nghìn tỷ đồng tài sản cố định chỉ 26% giá trị thiết bị máy móc, phần lớn thiết bị thuộc hệ kỹ thuật những năm 1950-1960 chịu ảnh hưởng lớn của hao mòn vô hình. Việc tiếp cận thành tựu khoa học mới của nước ta còn chậm trình độ tự động hoá các công cụ sản xuất còn thấp: Trung ương đạt tỷ lệ 3%, địa phương 1,7% về mức độ tự động hoá công cụ. Kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội còn rất thấp kém cả về trình độ kỹ thuật, công nghệ lẫn mạng lưới nhỏ hẹp. Sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, giá thành cao, mặt hàng không nhiều, chưa có khả năng vươn ra thị trường quốc tế rộng lớn.
- Gây khó khăn cho quá trình đầu tư của nước ngoài vào nước ta, cản trở nền kinh tế nước ta hội nhập kinh tế thế giới. Ngăn trở việc xây dựng thị trường và sự hình thành chiến lược thị trường hướng ngoại.
- Khó tránh khỏi vòng luẩn quẩn kỹ thuật công nghệ và kết cấu hạ tầng thấp kém, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp, từ đó khả năng tích luỹ hầu như không có và kết quả là không có vốn đầu tư.
Bên cạnh đó là sự chưa phù hợp của cơ cấu kinh tế được hình thành trong thời gian qua mà việc điều chỉnh lại là không dễ dàng: Với xuất phát điểm từ 1 quốc gia nông nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế hình thành, sự tập trung vốn thông qua nhiều hoạt động tích luỹ trong nước, vay vốn quốc tế, đã đưa nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp tăng khá. Qua các thời kỳ kế hoạch 5 năm nền kinh tế có sự tăng trưởng nhất định song chưa có sự phát triển kinh tế - xã hội đáng kể, chưa có sự phát triển theo chiều sâu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Nền kinh tế nghiêng về xây dựng nền công nghiệp nặng, muốn hiện đại hoá nhanh nhưng do nền kinh tế của ta còn nhỏ bé, phân tán và lạc hậu, nguồn vốn tích luỹ không lớn trình độ khoa học công nghệ chưa cao không đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một nền đại công nghiệp. Điều này dẫn đến thực tế kinh tế nước ta mất cân đối, sản xuất phát triển chậm, thu nhập quốc dân và năng suất thấp, đời sống nhân dân vẫn chưa được cải thiện... trong một thời gian.
Sớm nhận thức được những biểu hiện chưa phù hợp của các chính sách kinh tế Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ trương mới nhằm khắc phục khiếm khuyết, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử quá trình CNH ở nước ta. Đại hội cũng là đại hội của thời kỳ đổi mới của đất nước. Đại hội nhận định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lâu dài và gian khổ trải qua nhiều chặng đường và chúng ta hiện đang ở chặng đường đầu tiên với nhiệm vụ đề ra là: "ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo". Trong 5 năm trước mắt (1986-1990) cần tập trung sức người sức của thực hiện bằng được những mục tiêu của 3 chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nội dung của chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính của CNH-HĐH trong chặng đường đầu tiên. Bước đầu ta đã đạt được thành tựu mới: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển quan điểm kinh tế của đại hội VI, Hội nghị ban chấp hành Trung ương đã khẳng định phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong chính sách này chúng ta đã chuyển từ công tác kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng là chủ yếu. Trong thời gian này đường lối mới của Đảng đề ra từ Đại hội VI đã thu được những thành quả bước đầu rất quan trọng. Trước tiên trong kinh tế - xã hội đời sống nhân dân được cải thiện dần dần, ổn định sản lượng lương thực tăng nhanh đáp ứng nhu cầu trong nước hàng hoá đa dạng thị trường mở rộng, các cơ sở sản xuất gắn liền với nhu cầu thị trường. Phần bao cấp của nhà nước về vốn, giá, tiền lương giảm đáng kể, lạm phát được kiểm chế một bước. Các cơ sở kinh tế có điều kiện hạch toán kinh doanh, mọi mặt của đời sống được nâng lên.
Trên cơ sở phát huy những thành quả đạt được đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng đã kế thừa, phát huy và đề ra chủ trương mới khắc phục những khó khăn hạn chế thúc đẩy, phát huy những ưu điểm đã đạt được, bổ sung phát triển đường lối đổi mới đề ra trong đại hội 6. Phương hướng mục tiêu của đại hội 7 "đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát" ổn định phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân bước đầu tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng cũng đã đề ra những mục tiêu và giải pháp cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong đó đặc biệt nhấn mạnh quan điểm "lấy việc phát huy nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã làm được nhiều việc để thực hiện chiến lược con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số văn bản pháp luật quan trọng có liên quan đến con người và các chính sách xã hội đã được ban hành và đang đi vào cuộc sống.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đất nước có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên phát triển nguồn nhân lực lúc này được xem là một chiến lược cơ bản để đưa nước ta đạt tới mục tiêu một nước công nghiệp. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta đến nay nền kinh tế nước ta đã chấm dứt được thời kỳ khủng hoảng và bước vào thời kỳ mới phát triển toàn diện.
III. Quá trình CNH- HĐH ở nước ta hiện nay
1. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình CNH-HĐH
Nghị quyết hội nghị lần thứ VII ban chấp hành Trung ương Đảng đã cụ thể hoá thành phần quan điểm chỉ đạo quá trình CNH-HĐH đất nước như sau: CNH-HĐH phải theo định hướng XHCN, định hướng XHCN của quá trình này được xác định bởi 4 nhân tố sau:
- Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài CNH-HĐH là lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một xã hội trong đó nhân dân làm chủ.
Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng.
CNH-HĐH được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc điều hành và quản lý quá trình đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quan điểm thứ 2: Giữ vững độc lập tự chủ đi đối với mở rộng hợp tác quốc tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế hướng mạnh sản xuất đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
Quan điểm thứ 3: CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, mặt khác đây là một vấn đề mới so với quan niệm CNH trước đây - cho rằng CNH chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức quốc doanh. Ngày nay chúng ta cho rằng đó là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Nếu toàn xã hội không nhất trí quan tâm, không đề cao tinh