Phân tích vị trí và nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận? Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước?

trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80 của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986). Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường , nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn . Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung , quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường… Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta . NỘI DUNG CHÍNH: I. CƠ SỞ LÝ LUẬN II. TÍNH TẤT YẾU VÀ MÂU THUẪN BẢN CHẤT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.

doc18 trang | Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2185 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích vị trí và nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận? Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70 , cuối những năm 80 của thế kỷ XX , khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này . Trước tình hình này , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986). Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường , nước ta không tránh khỏi những khó khăn . Theo quan đIển triết học duy vật biện chứng thì bất cứ một sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mâu thuẫn của các mặt đối lập . Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn . Trong giai đoạn chuyển tiếp này , trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung , quan liêu , bao cấp ; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về mặt chính trị , pháp lý , quan điểm , tư tưởng . Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ nghĩa , mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường… Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển nền kinh tế đất nước . Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay . Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta . Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bằng những kiến thức thu được trong năm học vừa qua tôi chọn đề tài: "Phân tích vị trí và nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận? Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước?" I. CƠ SỞ LÝ LUẬN I.1.Lịch sử những tư tưởng triết học chủ nghĩa duy vật trước Mác về mâu thuẫn Trải qua quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm về mâu thuẫn khác nhau cũng thay đổi. Mỗi thời đại , mỗi trường phái lại có những lý giải khác nhau về mâu thuẫn , về các mặt đối lập , vì triết học luôn phát sinh từ những bối cảnh lịch sử nhất định . Thứ nhất là triết học thời cổ đại mà điển hình là ba nền triết học lớn đó là Trung Hoa , Hy Lạp và ấn Độ . Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên. Tuy nhiên , phải đến cuối thời Xuân thu _ Chién quốc , các hệ thống triết học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện . Những quan điểm biện chứng về mâu thuẫn thời kỳ này xuất hiện tuy còn sơ khai. Ví dụ như trường phái Âm – Dương. phái Âm – Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng . Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập gọi là sự thống nhất Âm – Dương. Quy luật nay thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt đối lập kia – ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng sinh thành. Triết học ấn Độ thì đưa ra phạm trù “vô ngả”, “vô thường”(của trương phái Phật Quốc ). “Một tồn tại “ nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng hợp”, “hội họp” của những cái không phải là nó mà nhờ hội đủ nhân – duyên . Không có tồn tại nào độc lập tuyệt đối với tồn tại khác Nhưng đã như vậy thì tất yếu phải đi đến một khẳng định về lẽ vô thường . Vô thường là chẳng “thường hằng” , “thường hằng “ là cái bất biến, chẳng bất biến là biến động , biến tức là biến động . Có thể nói , cùng với sự phát triển của các hình thức kinh tế – xã hội các tư tưởng về mâu thuẫn cũng ngày càng rõ nét. Hêraclit – nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó thì phỏng đoán rằng: mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của thế giới . Theo ông , các mặt đối lập gắn bó , quy định , ràng buộc với nhau. Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh của các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động . Vì thế đấu tranh là “cha đẻ của tất cả , là ông hoàng của tất cả”. Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ , nền triết học thời kỳ này chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và cái riêng . Sang đến triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và triết học duy vật cũng diễn ra hết sức gay gắt . Nhưng các quan đIểm thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào siêu hình , máy móc .Tới triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng triết học tiến bộ . Cách mạng và khoa học . Triết học cổ diển Đức đã đạt được trình độ khái quát và tư duy trừu tượng rất cao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ , thể hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực quan , siêu hình của nền triết học Anh – Pháp ở thế kỷ XVII – XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Hêghen . I.2.Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn. Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt đối lập , các thuộc tính , các khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau , đối lập nhau… *Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập . Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát các mặt , các khuynh hướng , các thuộc tính trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật , hiện tượng . Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập . Nhưng không phải hai mặt đối lập bất kỳ của một mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn . Chỉ những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có quan hệ khăng khít với nhau , tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫm là một chỉnh thể, trong đó các mặt đối lập vừa đấu tranh , vừa thống nhất với nhau . Trong một mâu thuẫn , hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau , quy định nhau ,mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình . Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật . Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật , hiện tượng nào và ngược lại . Ví dụ :trong sinh vật hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá thống nhất với nhau , nếu chỉ là một quá trình thì sinh vật sẽ bị chết .Trong xã hội tư bản , giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau , nếu không có giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp bán sức lao động cho giai cấp tư sản , thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư… Tuy nhiên , khai niệm “thống nhất “ này chỉ mang tính tương đối . Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó . Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng . Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trọng cùng một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhâu tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật . Sự đấu tranh chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau . Ví dụ : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuẩt trong xã hội có đối kháng giai cấp , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt . Chỉ có thể thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn . Thông thường khi nó mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau . Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn . Chỉ những sự khác nhau nào cùng tồn tại trong cùng một sự vật có liên hệ hữu cơ với nhau , phát triển ngược chiều nhau , tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến xung đột gay gắt , nó biến thành độc lập . Sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành . Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới , hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn .Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật mới xuất hiện . Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao . Chính vì vậy Lênin khẳng định “sự phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập “. Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập , Lênin chỉ ra rằng :’Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật , sự vật tồn tại trong thế giới khách quan . Song bản thân sự thống nhất chỉ là tạm thời . Đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối . Nó diễn ra thường xuyên , liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật . Kể cả trong trạng thái ổn định , cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất . Lênin viết :”sự thống nhất (phù hợp , đồng nhất ,tác dụng ngang nhau )của các mặt đối lập là có điều kiên , tạm thời , thoang qua trong tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển , sự vận động tuyệt đối”. *Chuyển hóa của các mặt đối lập . Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn tới sự chuyển hoá giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định , hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá , bài trừ , phủ định lẫn nhau . Trong giới tự nhiên , chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát , còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người Do đó , không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản , máy móc . Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức : +Phương thức thứ nhất :Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở một trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật . Ví dụ :Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới ở trình độ cao hơn. +Phương thức thứ hai:Cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá lẫn nhau để tạo thành hai mặt đối lập hoàn toàn mới . Ví dụ :Nền kinh tế Việt Nam chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung , quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới thực , bất kỳ sự vật , hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan , phổ biến của thế giới . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành . Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới . Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau dể tạo thành sự vật mới hơn . Cứ như vậy các sự vật , hiên tượng trong thế giới khách quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng . Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực phát triển của mọi quá trình phát triển. II. TÍNH TẤT YẾU VÀ MÂU THUẪN BẢN CHẤT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. II.1. Tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. * Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quắ trình phát triển nền kinh tế đất nước . Như đã biết ,kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất của văn minh nhân loại .Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay , kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã phát triển tới trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái , có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất , càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc , không giải quyết được các vấn đề xã hội , làm tăng thêm bất công và bất ổn của xã hội , đào sâu thên hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Chính vì thế mà , như C.Mác đã phân tích và dự báo , chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế bởi một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn , nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản , mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh và tự thích nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó , chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được , có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi . Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuyển sang một giai đoạn hậu công nghiệp , theo xu hướng xã hội hoá . Đây là tất yếu khách quan , là quy luật phát triển của xã hội . Nhân loại muốn tiến lên , xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa . Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội , tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn , một phương thức sản xuất văn minh hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản . Nhưng có lẽ , do nôn nóng , làm trái quy luật , không năng động , kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cục đã không thành công . Liên Xô khắc phục sự nóng vội bằn cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới “(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường Muốn thế , Nga cần phải sử dụng quan hệ tiền tệ – hàng hoá và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất . Tuy chỉ mới thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kế quả tích cực cho nước Nga:hồi phục và phát triển kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều nghành kinh tế hoạt động năng động , nhộn nhịp hơn . Tiếc rằng , tư tuởng của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau đó . Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những khuyết tật của mô hình kinh tế Xô Viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo , quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng trì trệ . Một số nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách , cải tổ nhưng với một “ tư duy” chính trị mới , họ đã mắc sai lầm nghiêm trọng cực đoan , phiến diện đãn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới , đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc , phi thị trường , mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn tới sự sụp đổ . Việt nam là một nước nghèo , kinh tế kỹ thuật lạc hâu , trình độ xã hội còn thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề , di lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam , là khát vọng thiêng liêng ngàn đời của nhân dân Việt Nam . Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng , muốn trả lời thật không đơn giản . Chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết , mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp . Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm ;và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan , duy ý chí . Lối suy nghĩ và hành động đơn giản , nóng vội không tôn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế ở Việt Nam . Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam(tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường , phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế , thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hành hoá và thị trường. Phê phán triệt để cơ chế tập trung , quan liêu , bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là một mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . *.Bản chất và những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa , cũng không phải kinh tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ,bởi vì Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , vừa có vừa chưa có các yếu tố của chủ nghĩa xã hội . Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại , phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy sức sản xuất , xã hội hoá lao động , cả tiến kỹ thuật – công nghệ , nâng cao chất lượng sản phẩm , tạo ra nhiều của cải , góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân : đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường . Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lênin nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam . Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời sống nhân dân .Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với phát triển quan hệ sản xuất mới , tiên tiến. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,, nhiều thành phần kinh tế , trong dó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc . Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách , pháp luật , và bằng cả sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước : đồng thời sử dụng cơ chế thị trường , áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất , giải phóng sức sản xuất , phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường , bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động , của toàn thể nhân dân . Kinh tế thị rường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất , kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội . Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay tr
Tài liệu liên quan