Pháp luật phong kiến Trung Quốc

Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt. Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng.

doc7 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 7470 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật phong kiến Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC: A - ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................1 B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:…………………………………………..1 I. Cơ sở hình thành và phát triển cũng như các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc…..................................................................1 1.Cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật phong kiến TrungQuốc...1 2.Các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung quốc.............1-2 II. Đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc..................................2 1. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình............2 2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm đạo đức với quy phạm pháp luật………………….........3-4 3. Đánh giá chung về tầm ảnh hưởng của pháp luật phong kiến Trung Quốc đến các nước phương Đông và Việt Nam………………………………4-5 C - KẾT LUẬN...........................................................................................6 A-ĐẶT VẤN ĐỀ: Nhà nước phong kiến Trung Quốc có lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu đời. Trải qua hàng ngàn năm lại càng được hoàn thiện và vững chắc hơn nữa, trở thành một nhà nước điển hình và có tầm ảnh hưởng lớn ở phương Đông ngay từ thời kì đầu và suốt cả quá trình tồn tại. Pháp luật phong kiến Trung Quốc với những đặc trưng nổi bật của mình chính là một trong những yếu tố chính làm nền một Trung Hoa giàu có, hưng thịnh và vững mạnh từ xa xưa. B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I) CƠ SỞ HÌNH THÀNH - PHÁT TRIỂN VÀ CÁC LOẠI NGUỒN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC: 1. Cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật phong kiến Trung Quốc     Như chúng ta đã biết Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng quan trọng và rộng lớn nhất thuộc kiến trúc thượng tầng, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.Bởi vậy sự hình thành và phát triển của nhà nước luôn gắn với sự hình thành và phát triển của pháp luật. Do đó cơ sở của sự hình thành và phát triển pháp luật cũng dựa trên cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước, bao gồm:           - Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất đóng vai trò chủ đạo và sự tồn tại của công xã nông thôn tạo nên cơ sở vật chất của nhà nước quân chủ chuyên chế           - Cơ sở chính trị – xã hội: Giai cấp địa chủ phong kiến hầu hết là trung và đại địa chủ- đây chính là giai cấp thống trị trong xã hội           - Cơ sở tư tưởng: là Học thuyết chính trị nho giáo. 2. Các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc           Được đánh giá là nước có nền luật pháp tương đối phát triển so với các nước ở phương Đông bởi vậy Luật pháp phong kiến trung Quốc khá hoàn thiện và đầy đủ với 5 nguồn chủ yếu, đó là:        - Lệnh: Chiếu chỉ của hoàng đế ban ra        - Luật: Quy định về chế độ ruộng đất, sản xuất nông nghiệp…        - Cách: Những cách thức làm việc của quan chức nhà nước        - Thức: Thể thức có liên quan đến việc khám nghiệm, tra hỏi, xét xử.... - Lệ: Án lệ. II) ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC 1. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình           Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong các quan hệ xã hội. Lễ là nội dung trọng tâm của nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác lập và củng cố mối quan hệ tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan hệ vua tôi, quan hệ cha mẹ – con cái, quan hệ chồng -vợ. Đó là trật tự của xã hôi phong kiến. Hình là hình phạt hay nói rộng ra là pháp luật.           Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật. Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong thời kì này rất mờ nhạt.           Từ nhà Hán trở về sau, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ- nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên tắc: Đức chủ hình phụ và Lễ pháp tịnh dụng.            Nhà nước phong kiến Trung Quốc còn sử dụng nguyên tắc “tam cương ngũ thường”của nho gia làm chủ đạo. Tam cương là nội dung cơ bản trong giáo lí của đạo nho và được pháp luật bảo vệ bằng việc quy định 10 trọng tội ( thập ác). Trong đó các tội trái với đạo hiếu có 6 tội( ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn). Các tội bất trung với hoàng đế phong kiến có 4 tội( mưa phản quốc,  mưa đại nghịch, mưa phản loạn, đại bất kính).Trong quan hệ hôn nhân theo giáo lí đạo Nho và cũng là theo luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần phạm một trong 7 điều sơ suất( thất suất): không con, dâm dật, không phụng sự cha mẹ chồng, miệng lưỡi nói năng lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luât pháp từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều “nhất chuẩn hồ lễ”. Hay nói cách khác luật pháp luôn luôn củng cố và bảo vệ lễ giáo phong kiến, trật tự của đẳng cấp của xã hội phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế phong kiến 2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức. Trong xã hôi phong kiến Trung Quốc đã tồn tại hai quan điểm đối lập nhau đó là: Quan điểm của pháp gia và quan điểm của nho gia.  Hai quan điểm này như hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội phong kiến Trung Quốc. Quan điểm của hai trường phái này được thể hiện tương ứng qua hai học thuyết pháp trị và đức trị. -  Nội dung của học thuyết pháp trị:           +, Pháp: Phải có hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch, hợp lí, ổn định, ban hành cho khắp dân chúng biết; phải thi hành pháp luật nghiêm chỉnh, triệt để, chí công vô tư”.           +, Thế: Ở đây thuyết pháp trị sử dụng nội dung “chính danh” của nho giáo, theo đó vua phải làm tròn phận sự của mình, các quan lại, dân chúng tùy theo danh phận của mình mà làm tròn công việc của mình. Trong đó chỉ có vua mới là người có thể cai trị thiên hạ           +, Thuật: phương pháp, thủ đoạn cai trị, nó bao gồm hai nội dung: bổ nhiệm và khảo thạch kiểm tra, thưởng phạt.       Ở Trung quốc, tư tưởng pháp trị được biểu hiện đầu tiên trong một câu nói của Quản Trọng- tướng quốc của Tề Hoàn Công vào khoảng đầu thời Xuân Thu: “Vua-tôi, trên-dưới, sang- hèn đều tuân theo pháp luật cả, thế gọi là đại trị”. Một nguyên tắc nổi tiếng của pháp trị là “Trời không vì một vật nào mà thay đổi bốn mùa. Minh quân, pháp quân cũng không vì vật nào mà thay đổi luật pháp”. Sau những nguyên lí đức trị của Khổng Tử được đề ra, đã xuất hiện từng bước những bất đồng về chính trị giữa “đức trị” và “pháp trị”. Sang thời chiến quốc rối ren, loạn lac, Tuân Huống, cũng là một danh nho đề ra thuyết “tính ác” coi bản tính con người vốn là ác, cho nên phải được uốn nắn bằng lễ, nghĩa thì con người mới làm được điều thiện. Học trò của Tuân Huống là Hàn Phi lại thiên về dùng pháp luật và hình phạt khắc nghiệt để ngăn chặn tính ác của con người. Hàn Phi cùng một số triết gia khác lập ra trường phái pháp trị, trong đó có Lí Tư, về sau làm cận thần của Tần Thủy Hoàng, thúc đẩy nhà vua ráo riết thi hành pháp trị bằng mọi thủ đoạn và hình phạt tàn ác.       - Nội dung của học thuyết đức trị:( là nội dung chủ yếu của nho giáo)            Theo Khổng Tử, pháp luật chỉ làm người ta sợ mà không dám làm điều ác, khi có thể dấu đươc hành vi phạm tội, khi có thể tránh được sự trừng phạt thì kẻ xấu vẫn làm điều ác. Nếu dùng đức trị mà cai trị dân, khi biến quyền lợi của giai cấp phong kiến thành quyền lợi của dân, thì họ sẽ không vì sợ pháp luật nhưng vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ lương tâm cắn rứt mà không làm điều ác nữa. Do đó, nó là phương tiện lừa bịp của giai cấp thống trị: nó khiến cho kẻ áp bức bóc lột dân lại trở thành ân nhân của người dân. Cũng theo Khổng Tử, đức trị muốn đạt hiệu quả cao phải đi đôi với lễ trị. Nghĩa là đạo đức sẽ được củng cố bằng những lễ nghi, cách nói năng, ăn mặc, cư xử trong cuộc sống.           Từ đời Hán trở đi, Đức trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội cũng như trong chính sách cai trị của nhà nước. Đến thời Đường, Đức trị của nho giáo còn được bổ sung thêm thuyết Nhân trị của phật giáo. Nhân trị ở đây là lòng từ bi, cứu nhân độ thế. Đến đời Tống, Minh sự suy yếu của đạo đức nho giáo được biểu hiên qua sự suy thoái của triều đại, một số học giả khôi phục lại học thuyết pháp trị nhưng không thành. Đến cuối đời Thanh, nho giáo và tư tưởng đức trị cũng bị phê phán kịch liệt            Tóm lại, trong suốt thời kì phong kiến trung Quốc đức trị và pháp trị đã cùng tồn tại với nhau, tương hỗ nhau. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ ảnh hưởng của hai học thuyết này có khác nhau. Nhìn chung thì nho giáo giữ vị trí thượng tôn, pháp trị vẫn được áp dụng nhưng không thể hiện một cách công khai.            Pháp trị là tư tưởng chủ đạo và được thực hành ở thời kì chiếm hữu nô lệ (cụ thể là thời xuân thu chiến quốc) và ở buổi ban đầu của chế độ phong kiến Trung Quốc ( nhà Tần) còn chức vụ của nho giáo là tư tưởng chủ đạo thịnh hành gần như suốt trong chế độ phong kiến ( từ Hán đến Thanh). Và đương nhiên trong suốt quá trình đó tư tưởng pháp trị trong một chừng mực nhất định đã được lồng ghép và hòa trộn vào đức trị. Pháp trị hay đức trị đều cùng một bản chất, đó chỉ là những biện pháp cai trị khác nhau, chỉ là sự khác nhau về việc áp dụng pháp luật. III) ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC           Trung Quốc là một nước lớn có nền văn minh phát triển sớm và thường xuyên chinh phục, đồng hóa các quốc gia lân cận. Văn hóa Trung quốc có ảnh hưởng lớn đến các nước phương Đông như: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Riêng về pháp luật  thể hiện hai điểm nổi bật: -       Tư tưởng pháp trị pháp lí nho giáo -       Tư tưởng pháp luật kết hợp với cả đức trị và pháp trị            Chính bởi hai đặc trưng nổi bật trên đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến pháp luật các nước khác trong đó Việt Nam là một nước tiêu biểu.  Do có nhiều nét tương đồng mà các nhà làm luật ở các triều đại phong kiến Việt Nam  đã vận dung nhiều hình thức pháp lí và chế định pháp luật phong kiến Trung Quốc. Pháp luật phong kiến Việt Nam đã dựa vào và thể chế hóa nội dung cơ bản của đạo nho. Tư tưởng đức trị, lễ nghĩa của nho giáo là sự kết hợp giữa đức trị với pháp trị từng bước được thẩm thấu vào luật pháp phong kiến Việt Nam, trở thành tư tưởng chủ đạo của các nhà làm luật Việt Nam, nhất là từ thời Lê trở đi. Vua Lê thánh Tông đã đặt ra 24 điều giáo hóa để giữ lấy luân thường đạo lí trong gia đình và thuần phong mĩ tục trong xã hội, thực chất đó là những quy tắc lễ nghĩa của đạo nho. Vua Lê Huyền Tông đã ra một đạo chỉ trong đó có một điều đã tóm tắt tất cả tinh thần của đạo chỉ: “làm người phải lấy tấm gương, ngũ thường làm đường lối mà theo” .Bộ luật Hồng Đức và bộ luật Gia Long thực chất là sự thể chế hóa tư tưởng đức trị và lễ nghĩa của nho giáo, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa lễ và hình. Đó chính là sự tiếp thu những đặc trung cơ của pháp luật phong kiến Trung Quốc. C- KẾT LUẬN:           Lịch sử luôn là sự bí ẩn của muôn đời, tự thân nó đã chứa đựng rất nhiều điều chúng ta chưa biết hoặc biết nhưng chưa đầy đủ. Pháp luật phong kiến Trung Quốc với những đặc trưng của mình có tầm ảnh hưởng quan trong đến xã hội phong kiến Trung Hoa nói chung và luật pháp của các quốc gia khác nói riêng trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc tìm hiểu về pháp luật phong kiến Trung Quốc có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trong. Bởi đó chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng một đất nước Trung Hoa vững mạnh và hưng thịnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật. NXB Công an nhân dân, 2009 Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật. NXB Đại học quốc gia Hà Nội 1997. Nguyễn Gia phú (chủ biên), Lịch sử thế giới trung đại. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.