Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã công nghiệp quyết tiến

Có thể khẳng định rằng nền kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang khẳng định được bước đi đúng hướng, đồng thời cũng tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện cả về nhân tố cấu thành cũng như hành lang pháp lý. Mặt khác, có thể nói rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó, điển hình là việc Việt Nam vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Nếu một quốc gia chỉ đóng của không giao lưu với nền kinh tế khác và thực hiện cơ chế tự cung tự cấp thì quốc gia đó không thể nào phát triển được. Mà để có một nền kinh tế phát triển thì quốc gia đó phải tăng cường giao lưu hợp tác, thúc đẩy giao lưu, hội nhập với nền kinh tế bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam càng có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhìn vào thực trạng hiện nay, chúng ta thấy rằng Việt Nam vẫn là một nước được xếp vào nhóm đang phát triển, vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, công nghiệp cũng chưa phát triển mạnh nhưng bù lại chúng ta có rất nhiều tiềm năng. Do đó, để đảm bảo cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thì phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp đó là phát triển kinh tế ngoại thương, mở rộng sự hợp tác với các nền kinh tế trên thế giới là một yêu cầu cấp bách.

docx58 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã công nghiệp quyết tiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Có thể khẳng định rằng nền kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang khẳng định được bước đi đúng hướng, đồng thời cũng tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện cả về nhân tố cấu thành cũng như hành lang pháp lý. Mặt khác, có thể nói rằng sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng theo xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó, điển hình là việc Việt Nam vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Nếu một quốc gia chỉ đóng của không giao lưu với nền kinh tế khác và thực hiện cơ chế tự cung tự cấp thì quốc gia đó không thể nào phát triển được. Mà để có một nền kinh tế phát triển thì quốc gia đó phải tăng cường giao lưu hợp tác, thúc đẩy giao lưu, hội nhập với nền kinh tế bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam càng có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhìn vào thực trạng hiện nay, chúng ta thấy rằng Việt Nam vẫn là một nước được xếp vào nhóm đang phát triển, vẫn dựa vào nông nghiệp là chính, công nghiệp cũng chưa phát triển mạnh nhưng bù lại chúng ta có rất nhiều tiềm năng. Do đó, để đảm bảo cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thì phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp đó là phát triển kinh tế ngoại thương, mở rộng sự hợp tác với các nền kinh tế trên thế giới là một yêu cầu cấp bách. Điều này đã được Đảng ta khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI năm 1986 đã chỉ rõ: “Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Còn tại Đại hội lần thứ VII năm 1991 cũng như Đại hội lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta cũng chỉ ra quan điểm: “Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự phát triển của kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và cho đến Đại hội lần thứ IX năm 2000, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ… Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng nhập khẩu”. Như vậy càng khẳng định rằng xuất nhập khẩu có vai trò cần thiết và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm phù hợp với sự phát triển trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước cho phép các loại hinh doanh nghiệp được thực hiện kinh doanh theo phương thức đa phương hóa, đa dạng hóa nghành, xóa bỏ dần sự khác biệt giữa các loại hinh doanh nghiệp. Trước tình hình đó, hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến cũng đã không ngừng đổi mới, phát triển nhiều ngành, nghề sản xuất để cho phù hợp với xu thế chung. Và xuất nhập khẩu cũng là một trong các hoạt động chính của hợp tác xã. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến”. Đề tài chỉ đề cập và nghiên cứu một phần nhỏ trong chế độ pháp lý ngoại thương, cụ thể ở đây là nghiên cứu về thực tiễn ký kết hợp đồng nhập khẩu và thực trạng tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến để từ đó có thể đưa ra các kiến nghị và các giải pháp nhằm giúp cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu tại hợp tác xã nói riêng và tại các doanh nghiệp nói chung hiện nay ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn. Kết cấu chính của đề tài này như sau: Ngoài các mục Lời nói đầu, phần Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài được chia làm ba chương chính nhu sau: Chương I: Cơ sở pháp lý của việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến. Chương III: Kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả của hợp đồng nhập khẩu nguyên vật liệu nhựa tại hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Hữu Mạnh và thầy giáo Đinh Hoài Nam, các thầy giáo trong khoa Luật Kinh tế và các bộ xã viên của hợp tác xã Công nghiệp Quyết Tiến đã hết sức giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Hà Nội, ngày tháng năm 2007 SINH VIÊN THỰC HIỆN Đới Ích Vũ Chương I CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Trong Điều kiện quốc tế hóa đời sống ngày càng cao, sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham gia vào quá trình liên kết và hợp tác kinh tế. Bởi vì quá trình đó không thể diễn ra ở một quốc gia mà phải tiến hành trên bình diện quốc tế. Đặc biệt, muốn phát triển nhanh thì mỗi quốc gia không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng tất cả các thành tựu khoa học, kỹ thuật, kinh tế mà loài người đã đạt được để thông thương, buôn bán trao đổi lẫn nhau. Vì thế mỗi quốc gia sẽ phải mua về những thứ không tự sản xuất được từ những nước khác, đồng thời bán những sản phẩm tự sản xuất được cho những nước có nhu cầu. Hoạt động này được gọi là hoạt động thương mại quốc tế.. Nhu cầu hoạt động ngoại thương thực chất là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trên thế giới. Nếu xem kinh tế ngoại thương là một tổng thể thì xuất nhập khẩu chính là cốt lõi của tổng thể đó. Vì thế hoạt động ngoại thương ra đời và phát triển cùng với sự phát triển về nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Mặt khác, nhập khẩu là một trong những phương thức tiếp thu những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới một cách nhanh chóng nhất và tạo ra cơ sở cho sự phát triển công nghệ hạ tầng và là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương mại. 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu có một vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của một đất nước. Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu tạo ra một lượng ngoại tệ rất lớn nhằm giúp cho việc nhập khẩu các mặt hàng cần thiết để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bởi vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để phát triển nền kinh tế của nước nhà. Để có thể thực hiện được công cuộc này, cần thiết phải có công nghệ khoa học kỹ thuật, thiết bị máy móc tiên tiến. Một phương pháp nhanh nhất để có những công nghệ máy móc này là nhập khẩu từ các nền công nghiệp tiên tiến. Có nhiều nguồn lực để có thể nhập khẩu các phương tiện máy móc kỹ thuật và một trong những nguồn lực quan trọng nhất đó chính là kết quả thu được từ hoạt động xuất khẩu. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu sẽ giúp cho hàng hoá trong nước có cơ hội gia nhập thị trường thế giới, tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công việc, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.Bởi vì, việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động đến làm việc, làm giảm bớt tình trạng thất nghiệp, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và tạo ra thu nhập không nhỏ cho người dân. Mặt khác, xuất khẩu mặt hàng này sẽ tạo ra nguồn lực để nhập khẩu mặt hàng khác mở rộng và đáp ứng ngày một phong phú nhu cầu tiêu dung của người dân. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu là cơ sở, tiền đề mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế của một quốc gia. Bởi vì xuất khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các quan hệ khác mở rộng và phát triển như quan hệ về tín dụng, đầu tư, bảo hiểm quốc tế, … Có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu là một vấn đề kinh tế mang tính chiến lược để phát triển nền kinh tế của một quốc gia. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu Khi đề cập đến vai trò của hoạt động xuất khẩu, không thể không nói đến hoạt động nhập khẩu. Vai trò của hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Thứ nhất, hoạt động nhập khẩu sẽ làm tăng số lượng và chất lượng của các mặt hàng trên thị trường trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thứ hai, nhập khẩu để mang lại cho người tiêu dùng những mặt hàng trong nước không thể sản xuất ra được, các mặt hàng mà khi nhập khẩu sẽ có lợi hơn khi sản xuất ra ở trong nước cũng như các mặt hàng mà trong nước sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người tiêu dùng. Thứ ba, hoạt động nhập khẩu mang lại cho một quốc gia một công nghệ khoa học hiện đại, tiên tiến phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu giúp cho việc sản xuất ở trong nước ngày càng phát triển, không ngừng nâng cao mẫu mã và chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu. Như vậy, hoạt động nhập khẩu nếu được Điều chỉnh hợp lý sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển của một nền kinh tế, tăng thu nhâp cho người dân, sử dụng có hiệu quả khả năng sản xuất trong nước, giải quyết tốt chính sách lao động xã hội, … II. HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU 1. Khái niệm Trong hợp đồng mua bán nói chung, luôn luôn có ít nhất hai chủ thể, đó là người mua và người bán. Theo khoản 8 Điều 3 của luật Thương mại năm 2005 thì “mua bán hàng hoá” là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận. Cũng theo Điều 28 của luật Thương mại 2005 thì: “xuất khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Còn “nhập khẩu hàng hoá” là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hoá chính là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hoá, do đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hoá. Ngoài hợp đồng này còn có thêm yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia nên nó còn phải thoả mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi hỏi. Một số công ước quốc tế đã định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hoá có yếu tố quốc tế như sau: Theo Điều 1 - Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình: “Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau”. Theo Điều 1 - Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”. Như vậy, có thể thấy những biểu hiện chủ yếu của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là: Các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau; Hàng hoá - đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc giai đoạn chào hàng và chấp thuận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác nhau; Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền sở hữu và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau; Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên trong quan hệ hợp đồng; Luật Điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, các Điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế khác về thương mại và hàng hải. 2. Đặc điểm So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng xuất nhập khẩu có nhiều điểm khác biệt đặc trưng. Điều làm nên sự khác biệt đó chính là tính quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu. Điểm khác biệt như sau: 2.1. Chủ thể Chủ thể tham gia hợp đồng xuất nhập khẩu có thể khác nhau theo các định nghĩa khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Theo công ước Viên: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những bên tham gia ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại hay có nơi cư trú thường xuyên ở các nước khác nhau”. Theo luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “Chủ thể tham gia hợp đồng là những thương nhân mang quốc tịch khác nhau”. Thương nhân theo luật Thương mại Việt Nam được qui định trong Điều 6 của luật này là “ cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên” 2.2. Đối tượng hợp đồng Đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu là hàng hoá. Đối tượng của hợp đồng được qui định khác nhau trong các nguồn luật khác nhau. Khoản 2 Điều 3 luật Thương mại Việt Nam 2005: “a. Hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai. b. Hàng hoá còn là những vật gắn liền với đất đai”. Có thể thấy luật Thương mại Việt Nam 2005 Điều chỉnh không chỉ bó hẹp ở các động sản mà còn cả các động sản. Còn các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng hoá, thanh toán, bảo hiểm, … thì không thuộc phạm vi Điều chỉnh của luật này. Đây cũng là một hạn chế khiến cho Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi hội nhập WTO. Hàng hoá, đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể được di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Thực tế thì Điều kiện này cũng cho thấy sự khác biệt giữa hợp đồng xuất nhập khẩu với một hợp đồng kinh tế nói chung, ví dụ như hợp đồng mua bán ký kết giữa một xí nghiệp trong khu chế xuất với một xí nghiệp ngoài khu chế xuất được pháp luật coi là hợp đồng xuất nhập khẩu, nhưng hàng hoá của hợp đồng đó không di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia. 2.3. Đồng tiền thanh toán Đối với hợp đồng mua bán trong nước thì đồng tiền thanh toán thường là nội tệ. Trong hợp đồng xuất nhập khẩu các bên có thể lựa chọn đồng tiền thanh toán theo thoả thuận của các bên ghi trong hợp đồng, có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu, của nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba. Tuy nhiên từ lúc ký kết đến khi thanh lý hợp đồng thường là một quãng thời gian khá dài, vì vậy có thể phát sinh tranh chấp trong việc thanh toán do chênh lệch tỷ giá hối đoái. 2.4. Luật áp dụng Nguồn luật Điều chỉnh đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là luật của bên bán, luật của bên mua, cũng có thể là luật của nước thứ bat rung gian hoặc là áp dụng một công ước quốc tế như công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ngoài ra hợp đồng xuất nhập khẩu còn chịu sự Điều chỉnh của tập quán thương mại quốc tế và thậm chí là án lệ quốc tế (tiền lệ pháp). Để tránh hiện tượng “xung đột pháp luật” - là hiện tượng có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể cùng tham gia Điều chỉnh một quan hệ pháp luật - thì các bên phải thống nhất dẫn chiếu một nguồn luật Điều chỉnh cụ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng. 3. Nguồn luật Điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu Trước khi giao kết một hợp đồng xuất nhập khẩu, các chủ thể luôn phải tìm hiểu trong hoàn cảnh đó hợp đồng qui định họ có những quyền và nghĩa vụ gì, như thế nào? Nếu một hợp đồng xuất nhập khẩu không chặt chẽ thì khả năng xảy ra tranh chấp là rất lớn, các bên dễ vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hợp đồng xuất nhập khẩu dù được soạn thảo hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu cũng không tiên liệu trước được mọi tình huống có thể phát sinh trong quá trình thực hiện. Khi đó, những vấn đề phát sinh sẽ dựa vào cơ sở nào để giải quyết nếu như trong hợp đồng không qui định hoặc qui định không đầy đủ. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì thông thường luật quốc gia là cơ sở. Nhưng nếu là hợp đồng xuất nhập khẩu thì không đơn giản. Để giải quyết vấn đề này, theo sự thoả thuận của các bên tham gia hợp đồng, nguồn luật Điều chỉnh có thể là luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hay tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại. 3.1. Luật quốc gia Luật quốc gia ở đây được hiểu là toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Ví dụ: Nếu pháp luật Việt Nam được áp dụng thì không chỉ áp dụng luật Thương mại mà là toàn bộ pháp luật Thương mại, rộng hơn nữa là toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng xuất nhập khẩu trong các trường hợp: Nếu Điều ước quốc tế mà quốc gia của chủ thể tham gia ký kết hoặc thừa nhận có qui định về Điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương, thì luật đó đương nhiên được áp dụng mà không phụ thuộc vào sự đàm phán và thoả thuận của các chủ thể. Các bên thoả thuận trong hợp đồng xuất nhập khẩu cho phép áp dụng luật quốc gia. Nếu các bên không đạt được bất kỳ một thoả thuận nào về luật áp dụng thì cơ quan thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ tự mình lựa chọn luật áp dụng căn cứ vào qui phạm xung đột của nước mình. Trường hợp do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau mà các bên có thể thoả thuận lựa chọn luật áp dụng sau khi ký hợp đồng hoặc thậm chí sau khi đã phát sinh tranh chấp (khi đó các bên vẫn có quyền thoả thuận đưa tranh chấp ra xét xử theo trình tự trọng tài và quyết định áp dụng luật quốc gia nào để giải quyết tranh chấp mà hợp đồng chưa qui định về cơ quan giải quyết tranh chấp). Có một vấn đề cần lưu ý là là tất cả các nước trên thế giới đều không cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài khi có lý do phải bảo vệ trật tự công cộng nước mình dù qui phạm xác định dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, nước người mua, luật của nước thứ ba hoặc luật của bất kỳ nước nào khác có quan hệ với hợp đồng, chẳng hạn như luật của nơi ký hợp đồng, nơi thực hiện nghĩa vụ, … Khi lựa chọn pháp luật của một nước thứ ba, phải có hiểu biết về luật pháp của nước đó. Cần phải biết luật đó bảo vệ quyền lợi của người bán, người mua, luật đó có trái với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng hay không. Ở Việt Nam, luật quốc gia có liên quan đến hợp đồng ngoại thương nói chung và hợp đồng xuất nhập khẩu nói riêng là luật Thương mại 2005, bộ luật Hàng hải, bộ luật Dân sự 2005, luật thuế xuất nhập khẩu, … Ngoài ra còn hàng loạt các nghị định, nghị quyết, qui định, thông tư như NĐ số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006, NĐ số 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2 năm 2006, NĐ số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/7/2006 nhằm qui định hoặc chi tiết hoá hướng dẫn việc thi hành các bộ luật này. 3.2. Điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập những qui tắc pháp lý bắt buộc để ấn định, thay đổi hoặc hoặc từ bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau. Điều ước quốc tế về thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, nó là cơ sở pháp lý quan trọng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được thiết lập giữa các doanh nghiệp của các quốc gia đó, là cơ sở để tăng cường mối quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể mà các quốc gia tham gia vì mục đích tăng cường hợp tác thúc đẩy phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, trong tư pháp quốc tế, Điều ước quốc tế không phải là nguồn luật chủ yếu chiếm ưu thế, vì để ký kết một Điều ước quốc tế cần có những điểm tương đồng về lợi ích trên cơ sở tương quan lực lượng giữa các quốc gia và còn những trở ngại về phong tục tập quán, nhưng đây là cách hữu hiệu nhất để giải quyết xung đột pháp luật, chúng có tác động chủ đạo và trực tiếp đối với hoạt động ngoại thương. Điều ước quốc tế có thể phân chia thành Điều ước song phương và Điều ước đa phương hoặc cũng có thể phân chia thành Điều ước quốc tế Điều chỉnh trực tiếp và Điều ước quốc tế Điều chỉnh gián tiếp. Đối với Điều ước quốc tế không Điều chỉnh trực tiếp hợp đồng mua bán ngoại thương không qui định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng mà chỉ Điều chỉnh ở tầm vĩ mô nhưng cũng là cơ sở để ký kết. Bao gồm các hiệp định thương mại. Nội dung của các Điều ước này chỉ định nguyên tắc áp dụng pháp lý chung giữa các quốc gi
Tài liệu liên quan