Tóm tắt: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Là một trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước, Hà Nội hiện đang phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn và thử thách.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa/doanh nghiệp vừa và nhỏ, quản lý, quản lý
nhà nước, phát triển, Hà Nội, thành phố Hà Nội.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Nội: những khó khăn và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
42Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
1. Đặt vấn đề
Tính đến tháng 5/2018, trên địa bàn
Hà Nội có 232.000 doanh nghiệp, trong
đó, số doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
chiếm trên 97%, đóng góp hơn 40% GDP
cho thành phố; tạo công ăn việc làm cho
hơn 50% lao động. Sau khi thành lập trên
địa bàn Hà Nội, hầu hết các DNNVV vẫn
mang tính tự phát, tự tìm tòi, sáng tạo, tự
phát triển. Vì vậy, để phát triển một cách
toàn diện, cần có sự quản lý của nhà nước
đối với doanh nghiệp nói chung và đối
với các DNNVV nói riêng.
2. Thực trạng QLNN đối với DNNVV
của Hà Nội trong thời gian qua
Trong thời gian qua, công tác quản lý
nhà nước của thành phố Hà Nội đối với
DNNVV đã đạt nhiều kết quả đáng ghi
nhận, thể hiện trên các mặt sau đây:
a) Về cải cách hành chính
Thành phố Hà Nội đã rà soát, chuẩn
hóa thủ tục hành chính (TTHC) thực hiện
theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông
và đang tiếp tục hoàn thiện TTHC, xây
dựng lại thủ tục để phù hợp với các văn
bản quy phạm pháp luật mới được ban
hành có hiệu lực.
b) Thực hiện các giải pháp hỗ trợ tài
chính, tín dụng
UBND Hà Nội giao Quỹ Bảo lãnh tín
dụng thực thi nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng
cho DNNVV (Quyết định số 1854/QĐ-
UBND ngày 14/4/2006). Tuy nhiên, trong
giai đoạn 2011-2015 Quỹ không thực hiện
được một hợp đồng bảo lãnh tín dụng nào
cho các DNNVV, nên hiện nay Hà Nội
đã thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV và đang hoàn thiện quy chế. Hiện,
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở HÀ NỘI:
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP
NCS. ThS.Nguyễn Tuấn Anh *
Tóm tắt: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Là một trung tâm kinh tế - xã hội của cả nước, Hà Nội hiện đang phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn và thử thách.
Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa/doanh nghiệp vừa và nhỏ, quản lý, quản lý
nhà nước, phát triển, Hà Nội, thành phố Hà Nội.
Abstract: The development of the small and medium- scale enterprises is an
important task of the strategy for socio- economic development and enhancement of
national industrialization and modernization. Hanoi, as a socio-economic centre of
the whole country, is now encountering innumerable difficulties and challenges.
Keywords: small and medium-scale enterprises, management, state governance,
development, the city of Hanoi
* Trợ lý Khoa Quản lý Nhà nước -
Trường ĐH KD&CN Hà Nội
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
43Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
mặt bằng lãi suất khoản vay ngắn hạn đang
ở mức 6%-7%/năm. Một số ngân hàng tiếp
tục đưa ra các gói sản phẩm tín dụng với
mức 5%-6%/năm. Các ngân hàng thương
mại ưu tiên cho DNNVV trong lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu, sản
xuất, kinh doanh các mặt hàng Nhà nước
khuyến khích vay.
c) Phát triển nguồn nhân lực, nâng
cao năng lực quản trị
Thành phố giao cho các sở Tư pháp,
Kế hoạch và Đầu tư, Công thương thực
hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý liên
ngành cho DNNVV .
d) Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp
dụng công nghệ mới
Hà Nội thực hiện Chương trình khoa
học - công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
thông qua việc cấp kinh phí thực hiện
các đề tài, ưu tiên hỗ trợ kinh phí thực
hiện các dự án sản xuất thử nghiệm hoàn
thiện công nghệ và đưa kết quả nghiên
cứu vào ứng dụng sản xuất, ưu tiên các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa chủ lực
của thành phố.
e) Hình thành các cụm liên kết ngành,
liên kết vùng
Hà Nội chủ trương phát triển các
chương trình cụm liên kết ngành, liên kết
vùng và phát triển công nghiệp hỗ trợ,
phát triển và nhân rộng mô hình này với
nhiều lĩnh vực lĩnh vực, ngành nghề, như
cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông
tin,Trên địa bàn thành phố hiện đã có
42 cụm công nghiệp hoạt động, tỷ lệ lấp
đầy các cụm công nghiệp là 88%, nhờ đó
tạo ra mạng liên kết sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm và hình thành chuỗi giá trị.
f) Cung cấp thông tin nhằm xúc tiến,
kết nối, mở rộng thị trường
Hà Nội hỗ trợ doanh nghiệp trong
việc cung cấp thông tin thương mại,
thị trường, xuất khẩu; xây dựng một số
trang thông tin điện tử, chợ “ảo” xúc tiến
thương mại; tổ chức đoàn đi hội chợ triển
lãm; hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức thương mại, hội nhập kinh tế quốc
tế; tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp xây
dựng quản lý và phát triển thương hiệu,
; Thành lập Quỹ xúc tiến thương mại từ
năm 2005, chương trình hỗ trợ các doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố xây dựng
và phát triển thương hiệu (Quyết định số
31/QĐ-UBND ngày 30/10/2012), chương
trình khuyến công.
3. Những khó khăn, hạn chế trong
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa
Hiện nay hoạt động trợ giúp của các
cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn
Hà Nội đối với các DNNVV vẫn chưa
phát huy được tác dụng, còn chồng chéo
và phân tán, chưa có trọng tâm, trọng
điểm. Trong số đó, đáng chú ý một số
nội dung sau:
a) Vốn hoạt động
Hiện nay các DNNVV gặp khó khăn
về vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh.
Phần lớn các DNNVV đều rất hạn chế
về vốn tự có, nên nhu cầu về vốn vay là
rất lớn. Tuy nhiên, việc vay vốn từ các
ngân hàng hay các quỹ tín dụng rất khó
khăn. Thị trường cung ứng vốn cho các
DNNVV chủ yếu là thị trường tài chính
phi chính thức. Hầu như các DNNVV,
nhất là các DNNVV ngoài quốc doanh,
không tiếp cận được với nguồn tín dụng
chính thức của ngân hàng. Nếu tiếp cận
được, cũng khó được ưu đãi về lãi suất.
Hiện chỉ khoảng 32% số DNNVV được
hỏi có thể tiếp cận được các nguồn vốn
ngân hàng, nhưng không có khả năng đáp
ứng các điều kiện về vay vốn. 68% số còn
lại không có khả năng tiếp cận vốn vay
ngân hàng.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
44Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
b) Mặt bằng kinh doanh
Các DNNVV vẫn khó khăn trong tiếp
cận đất đai. Các thủ tục về quyền sử dụng
đất vẫn là một vướng mắc, cản trở doanh
nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay
từ ngân hàng.
c) Các yếu tố đầu vào đầu ra
Đó là nguyên vật liệu, nguồn nhân
lực, lao động chất lượng cao, lao động
phổ thông, các chi phí trong hoạt động
kinh doanh. Khảo sát cho thấy chi phí cho
đầu vào nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng
lớn trong thành phẩm. Các doanh nghiệp
chủ yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc
điều kiện tự nhiên, nên nguồn nguyên liệu
thường không ổn định. Hơn nữa, phần lớn
các đầu vào cho sản xuất chủ yếu là nhập
khẩu, nên phụ thuộc vào biến động ngoại
tệ, thời gian vận chuyển,...
d) Hạn chế về sản phẩm và chất
lượng sản phẩm
Một trong những hạn chế lớn nhất
của DNNVV Việt nam nói chung là con
đường đi tìm đầu ra cho sản phẩm của
mình. Rất nhiều DNNVV vẫn đang duy
trì những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp,
chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên
lợi thế chi phí nhân công rẻ.
e) Hạn chế về khai thác và mở rộng
thị trường đầu ra nội địa
Thị trường nội địa của các DNNVV
còn kém phát triển và thiếu đồng bộ. Các
DNNVV chưa vượt ra được thị trường địa
phương và khu vực. Thị trường đầu ra nội
địa còn bị chèn ép vì độc quyền, vì hàng
nhập lậu tràn lan, vì doanh nghiệp thiếu
thông tin thị trường và thiếu sự hỗ trợ, tư
vấn của các cấp vĩ mô. DNNVV thường
chờ thời cơ, buôn bán nhỏ qua nhiều khâu
trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng lộn
xộn ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, hay
đội giá và gây ra hiện tượng khan hiếm
hoặc dư thừa hàng hóa trên thị trường.
f) Hạn chế về khai thác và mở rộng
thị trường đầu ra nước ngoài
Đối với các mặt hàng xuất khẩu,
phần lớn các DNNVV sản xuất các loại
sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia
nhập thị trường. Sản phẩm dưới dạng thô,
sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%), trong
khi lao động ở các DNNVV dư thừa rất
nhiều. Chất lượng sản phẩm kém, lại
không ổn định, rất khó cạnh tranh với
hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội
địa chứ nói gì đến thị trường nước ngoài.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam
luôn đứng ở thế yếu về chất lượng, giá cả,
mẫu mã trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch,
chất lượng trung bình từ Trung Quốc,
Thái Lan, ngay tại thị trường nội địa
bởi chưa tạo được thương hiệu riêng, mà
cũng không dễ dàng gì.
g) Thiếu trầm trọng các cơ chế hợp
tác thường xuyên
Sản xuất của DNNVV riêng rẽ, manh
mún khó có hiệu quả kinh tế. Chưa xác lập
được vai trò liên kết sản xuất phân đoạn
giữa các DNNVV. Mối quan hệ “vệ tinh -
trung tâm” với các doanh nghiệp lớn chưa
tồn tại ở Việt Nam trong khi đây là chìa
khoá cho thành công của nhiều DNNVV
của nhiều nền kinh tế trên thế giới (điển
hình là Nhật Bản). Giữa các DNNVV
cùng ngành cũng chưa có hợp tác chặt
chẽ, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau, thậm chí
nhiều khi còn cạnh tranh với nhau, kể cả
cạnh tranh không lành mạnh.
h) Công nghệ, thiết bị lạc hậu, năng
suất lao động thấp
Các doanh nghiệp nói chung, 70%
trang thiết bị máy móc, công nghệ của
các DNNVV lạc hậu, cũ nát, hết hạn sử
dụng do nhập khẩu từ của các nước. Mặt
khác, do thiếu vắng chiến lược công nghệ,
nên việc đổi mới công nghệ của DNNVV
diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
45Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
định hướng, thiếu sự hướng dẫn và hỗ
trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp
lớn. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan
nghiên cứu triển khai với các DNNVV,
tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung
tâm, các trường đại học chưa được khai
thác phục vụ cho các chương trình đổi mới
công nghệ, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ
giữa các doanh nghiệp lớn với DNNVV.
i) Thiếu tiếp cận thông tin và các dịch
vụ hỗ trợ
Các DNNVV gặp rất nhiều khó khăn
trong việc được đáp ứng nhu cầu thông
tin từ cơ quan QLNN, bao gồm thông tin
về chính sách pháp luật,về thị trường sản
phẩm và đánh giá chất lượng sản phẩm.
k) Trình độ nhân lực, lao động và
quản lý
Nhìn chung lao động trong các
DNNVV ít được đào tạo cơ bản qua các
trường lớp chính thống mà chủ yếu theo
phương pháp truyền nghề, trình độ văn
hóa thấp, đặc biệt là số lao động trong các
cơ sở kinh doanh nhỏ. Chất lượng dạy
nghề lại yếu, do cơ sở vật chất - kỹ thuật,
đội ngũ giáo viên, giáo trình, giáo án đều
rất thiếu thốn và lạc hậu, không đáp ứng
được yêu cầu.
4. Một số giải pháp và kiến nghị về
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Hà Nội
a) Với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hà Nội
- Các DNNVV cần tự hoàn thiện,
nâng cao năng lực quản trị của mình theo
hướng hiện đại, đổi mới, phát triển hợp
tác cùng có lợi. Tiếp tục nâng cao năng
lực cạnh tranh trên địa bàn và các khu
vực trên cả nước; Hoàn thiện hệ thống kế
toán theo hướng minh bạch, rõ ràng; Đầu
tư đổi mới công nghệ; Nâng cao trình độ
quản lý, đào tạo nâng cao tay nghề của
công nhân; Tham gia các Hiệp hội trên
địa bàn để học hỏi kinh nghiệm trong
công tác quản lý và kinh doanh... Bên
cạnh đó, tăng cường liên kết, hợp tác giữa
các DNNVV. Chủ động hợp tác với các
tổ chức, doanh nghiệp lớn trong nước và
nước ngoài để tranh thủ vốn, công nghệ,
thị trường để học hỏi và phát triển.
- Phát huy sức mạnh, vai trò của Hiệp
hội DNNVV Hà Nội, kết hợp với các hiệp
hội ngành nghề để nâng cao uy tín năng
lực và tầm ảnh hưởng các tổ chức. Thực
hiện tốt vai trò là kênh quan trọng phản
biện chính sách về doanh nghiệp, cho
phép cộng đồng doanh nghiệp được giám
sát và chấm điểm các cơ quan nhà nước
làm cơ sở đánh giá, cải thiện các chất
lượng dịch vụ cũng như làm cơ sở cho
việc cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ.
b) Với Hà Nội
- Hà Nội cần đánh giá lại toàn diện
hoạt động của khu vực DNNVV; tạo một
khí thế mới cho cộng đồng doanh nghiệp
trên cơ sở các cam kết của thành phố về
việc minh bạch hoá, công bằng hoá sự
phát triển kinh tế nói chung.
- Đẩy mạnh thực hiện cải cách TTHC,
tạo thuận lợi cho DNNVV. Tạo sân chơi
bình đẳng, không phân biệt đối xử đối
với các loại hình doanh nghiệp để ngày
càng có nhiều DNNVV mới thành lập và
hoạt động. Tiếp tục hoàn thiện thể chế,
chính sách hỗ trợ; cơ chế chính sách thúc
đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo. Thay đổi tư duy quản
lý sang trách nhiệm phục vụ, hướng dẫn
DNNVV phát triển, giảm sự nhũng nhiễu,
thờ ơ, thiếu trách nhiệm của công chức,
đảm bảo cho các cơ quan QLNN của
thành phố hướng dẫn xây dựng kế hoạch,
chương trình trợ giúp phát triển DNNVV,
thực sự là chỗ dựa, là người trợ giúp thật
hiệu quả đối với DNNVV.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
46Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
- Chính sách tín dụng. Đẩy mạnh
triển khai chương trình kết nối ngân hàng
- doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân
hàng, thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận vay vốn tín dụng với lãi
suất hợp lý, ưu tiên vốn tín dụng cho xuất
khẩu, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp
hỗ trợ, ứng dụng công nghệ cao.
- Cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, tạo sự cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, kể cả trong nội bộ các
DNNVV, chống việc hình thành các nhóm
lợi ích từ chính trong các DNNVV.
- Chính sách hỗ trợ gia nhập thị
trường. Tập trung cải thiện môi trường
đầu tư, sản xuất - kinh doanh, nâng cao
chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI). Tích cực
triển khai chương trình xúc tiến thương
mại trong và ngoài nước tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp giới thiệu, quảng
bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác; tiếp tục hỗ
trợ doanh nghiệp và làng nghề xây dựng,
phát triển thương hiệu.
- Chính sách thuế. Thành phố đẩy
mạnh cải cách TTHC thuế, ứng dụng
công nghệ thông tin trong tất cả các khâu
quản lý thuế; áp dụng phần mềm trong kê
khai thuế, nộp thuế điện tử... tạo thuận lợi
cho người nộp thuế .
Ngoài ra, tăng cường cung cấp thông
tin lý luận và thực tiễn, đẩy mạnh việc
tuyên truyền, kịp thời phổ biến, phân
tích chính sách thuế mới để cộng đồng
doanh nghiệp nắm chắc và hiểu rõ, hỗ
trợ doanh nghiệp triển khai thực hiện tốt
chính sách thuế.
- Phân loại đánh giá DNNVV. Thành
phố cần có những tiêu chí để phân loại,
đánh giá hoạt động của DNNVV, như tạo
được nhiều việc làm, đóng nhiều thuế,
hoạt động với tầm nhìn dài hạn, chuyên
nghiệp, tuân thủ pháp luật, minh bạch,..,
Cần có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó
khăn, xây dựng những nhân tố nòng cốt,
nhằm tôn vinh và nhân rộng các DNNVV
điển hình, tiên tiến. Tạo môi trường để
các DNNVV trên địa bàn tăng cường liên
kết với nhau, khích lệ họ có niềm tin và
sự cống hiến hết mình vì một Thủ đô văn
minh, giàu mạnh, xứng đáng là trung tâm
đầu não của cả nước.
- Trở thành trung tâm khởi nghiệp,
trung tâm sáng tạo của các doanh nghiệp.
Hà Nội phải đặt mục tiêu đi tiên phong
và trở thành trung tâm khởi nghiệp, trung
tâm sáng tạo của cả nước
- Hà Nội cần xây dựng và phát triển
các DNNVV với mô hình đồng bộ thị
trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường
các yếu tố đầu vào của sản xuất để tạo
điều kiện cho DNNVV hoạt động có hiệu
quả, có các nguồn lực để phát triển. Thực
thi hỗ trợ về tài chính, thuế và đảm bảo an
sinh xã hội; Đẩy mạnh hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao năng
lực quản trị, tăng cường năng lực nghiên
cứu và phát triển, đổi mới công nghệ.
Hoàn thiện mạng lưới hệ thống thông tin
hỗ trợ DNNVV trên địa bàn thủ đô.
- Phát triển quan hệ hợp tác giữa
DNNVV trên địa bàn với DN lớn, giữa
doang nghiệp trong nước với doanh
nghiệp FDI. Khuyến khích phát triển các
cụm công nghiệp, các dịch vụ phát triển
kinh doanh. Đẩy mạnh hợp tác với các tổ
chức quốc tế (ADB, JICA, WB,).
c) Với Nhà nước
- Nhà nước cần sớm ban hành Luật
hỗ trợ DNNVV. Trong đó, nêu rõ điều
kiện, trách nhiệm của đối tượng được hỗ
trợ, nội dung hỗ trợ, cách thức hỗ trợ, cơ
quan tổ chức triển khai thực hiện, chế tài
xử lý,...
- Xây dựng và ban hành “Chiến lược
phát triển và hỗ trợ DNNVV giai đoạn
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
47Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 04/2019
2016-2020, tầm nhìn 2030”, trong đó,
hoàn thiện các nội dung về chính sách hỗ
trợ DNNVV. Về kinh phí, cần hỗ trợ theo
một số nội dung cơ bản sau: đổi mới, sáng
tạo trong kinh doanh, tài chính và thuế; hỗ
trợ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá; phát triển
thị trường; cung cấp thông tin; tư vấn kinh
doanh; lao động và nguồn nhân lực; liên
kết giữa các DNNVV và giữa DNNVV
với DN lớn; hỗ trợ DN khởi nghiệp
- Đẩy mạnh thực hiện nội dung Nghị
quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp đến 2020 của Chính phủ,
nhấn mạnh rằng Nhà nước sẽ có những
chính sách đặc thù để hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp,
doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và có tiềm
năng tăng trưởng cao phát triển.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Hoàng Ân (2015). Chính sách tài chính hỗ trợ DNNVV: Kinh nghiệm
quốc tế và bài học đối với Việt Nam.
nghiep-nho-va-vua-kinh-nghiem-quoc-te-va-bai-..
2. Chính phủ (2009). Quy định các chính sách trợ giúp và quản lý nhà nước về
trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị định số 56/2009/NÐ-CP Ngày
30/6/2009.
3. Cổng thông tin điện tử Hiệp hội các DNNVV Thành phố Hà Nội – hanoisme.com
4. P.V. (2006). “Nâng cao hiệu quả hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Tạp chí Lao động & Xã hội, số 283 (từ 16/3 đến 31/3/2006).
5. Vũ Quốc Tuấn và các tác giả (2001). Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: Bài
học kinh nghiệm của các nước và thực tiễn ở Việt Nam. NXB Thống kê, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 05/7/2019