Chương I. Lịch sử hỡnh thành và đặc điểm của làng gốm bỏt tràng
Chương II. Thực trạng phỏt triển của làng gốm bỏt tràng
Chương III. Tiềm năng và lợi ớch phỏt triển du lịch làng nghề tại bỏt tràng
chương IV. Một số giải phỏp để phỏt triển du lịch tại làng gốm sứ bỏt tràng
48 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu 2
Chương I. Lịch sử hỡnh thành và đặc điểm của làng gốm bỏt tràng 3
I. Làng nghề truyền thống ở Việt Nam. 3
1. Khỏi niệm về làng nghề. 3
2. Đặc điểm của cỏc làng nghề. 3
3. Con đường hỡnh thành của cỏc làng nghề. 5
4. Điều kiện hỡnh thành cỏc làng nghề. 6
II. Lịch sử hỡnh thành và phỏt triển của làng gốm Bỏt Tràng. 7
1. Lịch sử hỡnh thành và phỏt triển của làng gốm Bỏt Tràng. 7
2. Bản sắc làng nghề 9
2.1. Đất hoỏ nờn vàng 9
2.2. Tổ chức phường hội trước cỏch mạng thỏng Tỏm, 1945. 13
2.3. Niềm tự hào của làng gốm 17
Chương II. Thực trạng phỏt triển của làng gốm bỏt tràng 23
I. Những sản phẩm chớnh của làng gốm Bỏt Tràng. 23
1. Đồ dõn dụng. 23
2. Đồ thờ. 23
3. Đồ trang trớ nội thất và vườn. 23
II. Tổ chức sản xuất tại làng gốm Bỏt Tràng. 23
III. Cơ cấu thị trường tiờu thụ sản phẩm 28
IV. Những hạn chế mà làng đang gặp phải. 30
Chương III. Tiềm năng và lợi ớch phỏt triển du lịch làng nghề tại bỏt tràng 33
I. Tiềm năng cho phỏt triển du lịch 33
1. Sản phẩm độc đỏo, hấp dẫn khỏch du lịch 33
2. Làng cú cỏc cụng trỡnh kiến trỳc cổ. 34
3. Vị trớ địa lý thuận lợi cho phỏt triển du lịch. 37
4. Nột độc đỏo của phương thức sản xuất ngành nghề thủ cụng truyền thống 39
II. Lợi ớch của việc phỏt triển du lịch tại làng gốm Bỏt Tràng 39
1. Cho phộp mở rộng thị trường và nõng cao hiệu quả kinh tế của làng nghề 39
2. Duy trỡ và phỏt huy tớnh sỏng tạo của người thợ 40
3. Là phương thức để sự thể hiện về tài nghệ của người thợ gốm Bỏt Tràng đi xa hơn. 40
chương IV. Một số giải phỏp để phỏt triển du lịch tại làng gốm sứ bỏt tràng 42
1. Những giải phỏp trong thiết kế và tổ chức sản xuất, trưng bày 42
2. Phỏt triển cơ sở hạ tầng 43
3. Cú sự liờn kết với cỏc cụng ty du lịch 44
Kết luận 45
Tài liệu tham khảo 47
Lời mở đầu
Thăng Long - Hà Nội là mảnh đất cú một nền văn hoỏ lõu đời, nơi đõy cũn nổi tiếng với những làng nghề thủ cụng mỹ nghệ bởi những bàn tay tài hoa của những bậc nghệ nhõn từ cổ chớ kim. Cỏc sản phẩm tài hoa của Thăng Long khụng những nổi tiếng trong nước mà cũn, bay cao bay xa trờn trường quốc tế.
Một trong những làng nghề cổ truyền nổi tiếng ấy là một làng gốm ven sụng, làng gốm Bỏt Tràng. Làng gốm đó trải qua trờn năm thế kỷ với nhiều thành tựu rất đỏng tự hào, đú là bệ đỡ vững chắc để Bỏt Tràng hụm nay ngày càng tiến nhanh hơn cựng với sự phỏt triển kinh tế xó hội của đất nước.
Vốn quý đú của Bỏt Tràng cũng là một nguồn tài nguyờn rất cú giỏ trị đối với hoạt động kinh doanh du lịch, nú hoàn toàn cú thể trở thành điểm du lịch cú sức hấp dẫn rất lớn nếu như được chớnh quyền địa phương và ngành du lịch quan tõm và khai thỏc đỳng mức.
Tuy nhiờn, cỏc sản phẩm gốm sứ tại Bỏt Tràng hiện nay chỉ chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dõn và sản xuất cũng mới chỉ dừng ở sản xuất thủ cụng. Trong khi đú, phỏt triển du lịch và tạo ra cỏc sản phẩm đặc trưng phục vụ cho khỏch du lịch mới là hỡnh thức phỏt triển của kinh tế dịch vụ.
Là một sinh viờn của ngành du lịch, em rất mong được đúng gúp những nghiờn cứu, nhận định của mỡnh và đưa ra một số giải phỏp để Bỏt Tràng khụng những là địa phương cú sự phỏt triển kinh tế bằng nghề truyền thống vốn cú mà cũn trở thành một nơi cung cấp cỏc sản phẩm, đồ lưu niệm cho khỏch du lịch cũng như một điểm du lịch nổi tiếng, đúng gúp chung vào sự phỏt triển du lịch của Việt Nam.
Chương I
Lịch sử hỡnh thành và đặc điểm của
làng gốm Bỏt Tràng
I. Làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
1. Khỏi niệm về làng nghề.
Cho đến nay vẫn chưa cú khỏi niệm chớnh thống về “làng nghề”. Theo giỏo sư Trần Quốc Vượng thỡ “làng nghề là một làng tuy vẫn cũn trồng trọt theo lối tiểu nụng và chăn nuụi nhưng cũng cú một số nghề phụ khỏc như đan lỏt, gốm sứ, làm tương... song đó nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ cụng chuyờn nghiệp hay bỏn chuyờn nghiệp, cú phường (cơ cấu tổ chức), cú ụng trựm, ụng cả... cựng một số thợ và phú nhỏ, đó chuyờn tõm, cú quy trỡnh cụng nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thõn vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đú và sản xuất ra những mặt hàng thủ cụng, những mặt hàng này đó cú tớnh mỹ nghệ, đó trở thành sản phẩm hàng và cú quan hệ tiếp thị với một thị trường là vựng rộng xung quanh và với thị trường đụ thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi cú thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”*
Định nghĩa này hàm ý về cỏc làng nghề truyền thống, đú là những làng nghề nổi tiếng từ hàng nghỡn năm.
2. Đặc điểm của cỏc làng nghề.
Đặc điểm nổi bật nhất của cỏc làng nghề là tồn tại ở nụng thụn, gắn bú chặt chẽ với nụng nghiệp. Cỏc làng nghề xuất hiện trong từng làng- xó ở nụng thụn sau đú cỏc ngành nghề thủ cụng nghiệp được tỏch dần nhưng khụng rời khỏi nụng thụn, sản xuất nụng nghiệp và sản xuất- kinh doanh thủ cụng nghiệp trong cỏc làng nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ cụng trước hết và đồng thời là người nụng dõn.
Hai là, cụng nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong cỏc làng nghề, đặc biệt là cỏc làng nghề truyền thống thường rất thụ sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ cụng là chủ yếu. Cụng cụ lao động trong cỏc làng nghề đa số là cụng cụ thủ cụng, cụng nghệ sản xuất mang tớnh đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm cú cụng nghệ- kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đụi bàn tay khộo lộo của người thợ mặc dự hiện nay đó cú sự cơ khớ hoỏ và điện khớ hoỏ từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ cú một số khụng nhiều nghề cú khả năng cơ giới hoỏ được một số cụng đoạn trong sản xuất sản phẩm.
Ba là, đại bộ phận nguyờn vật liệu của cỏc làng nghề thường là tại chỗ. Hầu hết cỏc làng nghề truyền thống được hỡnh thành xuất phỏt từ sự sẵn cú của nguồn nguyờn liệu sẵn cú tại chỗ, trờn địa bàn địa phương. Cũng cú thể cú một số nguyờn liệu phải nhập từ vựng khỏc hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thờu, thuốc nhuộm... song khụng nhiều.
Bốn là, phần đụng lao động trong cỏc làng nghề là lao động thủ cụng, nhờ vào kỹ thuật khộo lộo, tinh xảo của đụi bàn tay, vào đầu úc thẩm mỹ và sỏng tạo của người thợ, của cỏc nghệ nhõn. Trước kia, do trỡnh độ khoa học và cụng nghệ chưa phỏt triển thỡ hầu hết cỏc cụng đoạn trong quy trỡnh sản xuất đều là thủ cụng, giản đơn. Ngày nay, cựng với sự phỏt triển của khoa học- cụng nghệ, việc ứng dụng khoa học- cụng nghệ mới vào nhiều cụng đoạn trong sản xuất của làng nghề đó giảm bớt được lượng lao động thủ cụng, giản đơn. Tuy nhiờn, một số loại sản phẩm cũn cú một số cụng đoạn trong quy trỡnh sản xuất vẫn phải duy trỡ kỹ thuật lao động thủ cụng tinh xảo. Việc dạy nghề trước đõy chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong cỏc gia đinh từ đời này sang đời khỏc và chỉ khuụn lại trong từng làng. Sau hoà bỡnh lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tỏc xó làm nghề thủ cụng truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dậy nghề đó cú nhiều thay đổi, mang tớnh đa dạng và phong phỳ hơn.
Năm là, sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tớnh đơn chiếc, cú tớnh mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoỏ dõn tộc. Cỏc sản phẩm làng nghề truyền thống vừa cú giỏ trị sử dụng, vừa cú giỏ trị thẩm mỹ cao, vỡ nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiờu dựng, vừa là vật trang trớ trong nhà, đền chựa, cụng sở Nhà nước... Cỏc sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương phỏp thủ cụng tinh xảo với sự sỏng tạo nghệ thuật. Cựng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn cú thể phõn biệt được đõu là gốm sứ Bỏt Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Đụng Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở cỏc đỡnh chựa, hoa văn trờn cỏc trống đồng và cỏc hoạ tiết trờn đồ gốm sứ đến những nột chấm phỏ trờn cỏc bức thờu... tất cả đều mang vúc dỏng dõn tộc, quờ hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoỏ tinh thần, quan niệm về nhõn văn và tớn ngưỡng, tụn giỏo của dõn tộc.
Sỏu là, thị trường tiờu thụ sản phẩm của cỏc làng nghề hầu hết mang tớnh địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của cỏc làng nghề, đặc biệt là cỏc làng nghề truyền thống, là xuất phỏt từ việc đỏp ứng nhu cầu về hàng tiờu dựng tại chỗ của cỏc địa phương. ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều cú cỏc chợ dựng làm nơi trao đổi, buụn bỏn, tiờu thụ sản phẩm của cỏc làng nghề. Cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là cỏc thị trường địa phương, là tỉnh hay liờn tỉnh và một phần cho xuất khẩu.
Bảy là, hỡnh thức tổ chức sản xuất trong cỏc làng nghề chủ yếu là ở quy mụ hộ gia đỡnh, một số đó cú sự phỏt triển thành tổ chức hợp tỏc và doanh nghiệp tư nhõn.
3. Con đường hỡnh thành của cỏc làng nghề.
Khảo sỏt, nghiờn cứu về cỏc làng nghề cho thấy, dự đú là làng nghề gỡ, sản xuất- kinh doanh như thế nào, thành lập từ bao giờ, tuy thời điểm xuất hiện của chỳng cú khỏc nhau nhưng tựu chung lại chỳng thường xuất hiện theo một số con đường tương đối phổ biến là:
Thứ nhất là, phần lớn cỏc làng nghề được hỡnh thành trờn cơ sở cú những nghệ nhõn, với nhiều lý do khỏc nhau đó từ nơi khỏc đến truyền nghề cho dõn làng.
Thứ hai là, một số làng nghề hỡnh thành từ một số cỏ nhõn hay gia đỡnh cú những kỹ năng và sự sỏng tạo nhất định. Từ sự sỏng tạo của họ, quy trỡnh sản xuất và sản phẩm khụng ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Rồi họ truyền nghề cho dõn cư trong làng, làm cho nghề đú ngày càng lan truyền ra khắp làng và tạo thành làng nghề.
Thứ ba là, một số làng nghề hỡnh thành do cú những người đi nơi khỏc học nghề rồi về dạy lại cho những người khỏc trong gia đỡnh, dũng họ và mở rộng dần phạm vi ra khắp làng.
Thứ tư, một số làng nghề mới hỡnh thành trong những năm gần đõy, sau năm 1954 được hỡnh thành một cỏch cú chủ ý do cỏc địa phương thực hiện chủ trương phỏt triển nghề phụ trong cỏc hợp tỏc xó nụng nghiệp.
Thứ năm là, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, cú một số làng nghề đang được hỡnh thành trờn cơ sở sự lan toả dần từ một số làng nghề truyền thống, tạo thành một cụm làng nghề trờn một vựng lónh thổ lõn cận với làng nghề truyền thống.
4. Điều kiện hỡnh thành cỏc làng nghề.
Nghiờn cứu sự phõn bố của cỏc làng nghề cho thấy, sự tồn tại và phỏt triển của cỏc làng nghề cần phải cú những điều kiện cơ bản nhất định:
Một là, gần đường giao thụng. Hầu hết cỏc làng nghề cổ truyền đều nằm trờn cỏc đầu mối giao thụng quan trọng, đặc biệt là những đầu mối giao thụng thuỷ bộ.
Hai là, gần nguồn nguyờn liệu. Hầu như khụng cú làng nghề nào lại khụng gắn bú chặt chẽ với một trong những nguồn nguyờn liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất của làng nghề.
Ba là, gần nơi tiờu thụ hoặc thị trường chớnh. Đú là những nơi tập trung dõn cư với mật độ khỏ cao, gần bến sụng, bói chợ và đặc biệt là rất gần hoặc khụng quỏ xa cỏc trung tõm thương mại.
Bốn là, sức ộp về kinh tế. Biểu hiện rừ nhất thường là sự hỡnh thành và phỏt triển của cỏc làng nghề ở những nơi ớt ruộng đất, mật độ dõn số cao, đất chật người đụng, thờm vào đú cú khi cũn là do chất đất hoặc khớ hậu khụng phự hợp làm cho nghề nụng khú cú điều kiện phỏt triển để đảm bảo thu nhập và đời sống dõn cư trong làng.
Năm là, lao động và tập quỏn sản xuất ở từng vựng. Nếu khụng cú những người tõm huyết với nghề, cú nhiều quan hệ gắn bú với nghề và cú khả năng ứng phú với những tỡnh huống xấu, bất lợi thỡ làng nghề cũng khú cú thể tồn tại một cỏch bền vững.
II. Lịch sử hỡnh thành và phỏt triển của làng gốm Bỏt Tràng.
1. Lịch sử hỡnh thành và phỏt triển của làng gốm Bỏt Tràng.
Xó Bỏt Tràng hiện nay gồm hai làng Bỏt Tràng và Giang Cao gộp lại, là một trong 31 xó của huyện Gia Lõm, trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, từ năm 1961 thuộc ngoại thành Hà Nội. Diện tớch toàn xó Bỏt Tràng gồm 153 ha, trong đú chỉ cú 46 ha đất canh tỏc.
Quỏ trỡnh thành lập làng xó Bỏt Tràng dường như liờn quan đến sự tụ cư và chuyển cư được diễn ra trong một thời gian khỏ dài. Tương truyền đầu tiờn là những người thợ thuộc họ Nguyễn Ninh Tràng (Trường) từ trường Vĩnh Ninh (Thanh Hoỏ), nơi sản xuất loại gạch xõy thành nổi tiếng trong lịch sử chuyển cư ra.
Là một làng nghề gốm truyền thống, từ xa xưa đó cú một huyền thoại truyền khẩu trong nhiều thế hệ người làng rằng: “Vào thời Trần (thế kỷ XIII-XIV), cú ba vị đỗ Thỏi học sinh (ngang với tiến sĩ thời Lờ -Nguyễn) được triều đỡnh cử đi xứ Bắc Quốc là Hứa Vĩnh Kiều - người Bỏt Tràng, Đào Trớ Tiến- người làng Thổ Hà và Lưu Phương Tỳ - người làng Phự Lóng. Sau khi hoàn tất cụng việc ngoại giao trờn đường về nước qua vựng Thiều Chõu, gặp bóo lớn, họ phải dừng lại nghỉ, nơi đú cú xưởng gốm Khai Phong. Trong nửa thỏng ba ụng học lấy nghề làm gốm: từ cỏch thức xõy lũ, làm bỏt đến làm men, chộp lại thành sỏch và mỗi người thuờ 4 người thợ khộo ở bờn ấy cựng về. Khi về nước, ba người hỏi nhau ai thớch mụn gỡ? Hứa Vĩnh Kiều làng Bỏt Tràng thớch làm đồ trắng, người làng Thổ Hà thớch màu đỏ, cũn người làng Phự Lóng lại thớch màu da lươn. Mỗi người trở về quờ hương lập thành lũ làm gốm từ đấy”*
Thực ra nghề làm gốm ở Việt Nam đó cú một lịch sử phỏt triển từ rất sớm. Hiện nay khảo cổ học Việt Nam đó phỏt hiện ra những dấu vết đồ gốm thụ cú niờn đại 6000 năm trước. Chuyển đến giai đoạn gốm Phựng Nguyờn, Gũ Mun (Vĩnh Phỳ) thời đầu cỏc vua Hựng, thỡ chất lượng gốm đó cao hơn, chắc hơn với độ nung 800-900 độ C. Cỏc sản phẩm gốm trong giai đoạn này cú xương gốm bước đầu được tinh luyện, kỹ thuật tạo dỏng đó đẹp và tiện dụng hơn. Hoa văn trang trớ được thể hiện bằng cỏc phương phỏp chải, rạch, dập và in. Người thợ gốm đó loại bỏ dần những yếu tố ngẫu nhiờn, bắt đầu quan tõm đến cỏi đẹp của từng loại sản phẩm. Đến giai đoạn gốm men Đại Việt (từ thế kỷ XI trở đi) thỡ một số trung tõm gốm đó hỡnh thành trờn đất nước ta như vựng gốm Hà Bắc, Thanh Hoỏ, Thăng Long, Đà Nẵng,... Những sản phẩm gốm dõn dụng kết hợp với nghề làm gạch ngúi đỏp ứng yờu cầu xõy dựng chựa, thỏp như chựa Phật Tớch (Hà Bắc) Quốc Tử giỏm (Hà Nội), thỏp Chàm (Quảng Nam, Đà nẵng),... Đặc biệt ở thời Trần, cú trung tõm gốm Thiờn Trường (Hà Nam Ninh) với cỏc sản phẩm tiờu biểu như bỏt, đĩa, bỡnh lọ phủ men ngọc, men nõu ,... Như thế thỡ đõu phải cú sự truyền dạy của thợ gốm Tàu mới cú nghề gốm ở Bỏt Tràng, Thổ Hà, Phự Lóng... Duy chỉ cú truyền thuyết núi về việc dõn làng ở Bỏt Tràng từ Bồ Bỏt chuyển cư ra Bắc và định cư ở hữu ngạn sụng Hồng, phớa dưới Thăng Long, để tiện việc chuyờn chở nguyờn liệu và thành phẩm là phự hợp với lịch sử. Nghề gốm ở Bỏt Tràng gắn liền với quỏ trỡnh lập làng. Do vậy, thời điểm chuyển cư hợp lý nhất của người làng Bồ Bỏt phải là vào khoảng cuối thời Trần (thế kỷ XIV) và cú thể coi đú là thời điểm mở đầu của làng gốm .
Một thực tế cho thấy người dõn làng Bỏt khụng thờ tổ nghề như cỏc làng nghề thủ cụng khỏc. Chỉ cú điều vào cỏc dịp lễ hội thờ thành hoàng làng hàng năm, dõn làng rước cỏc bài vị đề duệ hiệu, mỹ tự của cỏc thần ra đỡnh tế lễ, cỏc dũng họ được rước tổ của mỡnh ra phối hưởng. Riờng họ Nguyễn Ninh Tràng, là họ đầu tiờn chuyển ra làng Bỏt, được quyền rước bỏt hương che lọng vàng, đi vào giữa đỡnh. Cũn cỏc họ khỏc lần luợt rước bỏt Hương che lọng xanh đi nộ sang bờn. Lễ hội làng Bỏt cú nhiều trũ chơi và cỏc cuộc thi tài thật độc đỏo. Ngoài thi nấu cỗ, đỏnh cờ người (mà tướng đều là cỏc bà), làng cũn tổ chức đua tài bằng những sản phẩm tinh xảo do người thợ chế tỏc ra. Giải thưởng tuy khụng lớn nhưng đó động viờn mọi người khiến ai cũng cố gắng hết mỡnh để tạo ra những vật phẩm cú giỏ trị vĩnh hằng. Ai ai cũng hỏo nức tham gia và họ cú một niềm tin rằng, người được giải chớnh là được tổ nghề ban lộc, làm ăn sẽ khỏ giả, nghề nghiệp tiến triển suốt năm. Đõy cũng là vinh dự vụ giỏ để mỗi người tự nõng cao tay nghề hờn đến năm sau lại cú dịp đua tài .
2. Bản sắc làng nghề
2.1. Đất hoỏ nờn vàng
Theo quan niệm của người xưa, núi đến cỏc vật phẩm bằng gốm là núi đến sự kết hợp hài hoà của ngũ hành (Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ). Kim loại ngõm trong xương và trong men gốm, tạo ra vẻ đẹp và sự huyền bớ của màu sắc. Rơm, tre, củi, gỗ tạo ra ngọn lửa và tạo ra “hoả, biến”, tỏc nhõn của sự bền chắc trong xương gốm, màu sỏng búng rực rỡ của ỏo gốm. Nước hoà với đất để tạo ra dỏng gốm và minh hoạ cỏc biểu tượng của tõm hồn. Lửa là cha tạo ra phẩm chất, sắc thỏi của gốm. Đất là mẹ tạo ra xương thịt của gốm. Tất cả những yếu tố đú đó tạo nờn giỏ trị của sản phẩm gốm. Để cầu mong sự thịnh vượng, người thợ gốm Bỏt Tràng thời xưa, mỗi khi phỏt hoả, nhúm lũ lại thắp ba nộn hương khấn cầu cho ngũ hành hanh thụng, nghề nghiệp tiến triển.
Lỳc đầu, người thợ Bỏt Tràng khai thỏc đất sột trắng ngay tại làng. Chất liệu này đảm bảo tinh dẻo, ớt bó và ớt phải gia cố trước khi tạo hỡnh. Cho đến cuối thời Lờ, cỏc gũ đất sột trắng của phường Bạch Thổ đó cạn, người thợ Bỏt Tràng dựng đất lấy ở Rau (Sơn Tõy), Cổ Điển (Phỳc Yờn) và đặc biệt là đất Dõu Canh (Đụng Anh). Từ cuối thời Lờ trở đi, người Bỏt Tràng sử dụng đất sụng Dõu làm nguyờn liệu chớnh.
Cho đến cuối thế kỷ trước, một mặt người thợ Bỏt Tràng vẫn tiếp tục sử dụng đất Dõu Canh sản xuất đồ đạc, mặt khỏc, họ cũn sử dụng đất cao lanh Lạc Tử, đất sột trắng Hổ Lao và Trỳc Thụn (Đụng Triều ). Đõy là nguyờn liệu để sản xuất đồ sành trắng.
Trong khõu tạo dỏng đồ gốm, xưa kia ở Bỏt Tràng phổ bớến là lối be chạch vuốt tay trờn bàn xoay. Tuỳ theo vật dụng định làm mà người thợ dựng chõn để xoay, dựng tay để vuốt. Kết quả họ đó tạo ra những sản phẩm đơn chiếc. Kiểu vuốt này ở Bỏt Tràng hiện cũn rất ớt người thợ gốm làm được. Gần đõy tớnh cụng nghiệp của sản phẩm gốm đó được đẩy mạnh hơn khi xuất hiện cỏc loại khuụn gỗ và thạch cao. Người thợ sỏng tỏc ra một mẫu nào đú gọi là cốt, sau đú người ta làm khuụn để sản xuất cho ra hàng loạt. Ưu điểm của loại kỹ thuật này là làm ra được những mặt hàng giống nhau và giỏ thành hạ.
Chế tạo men gốm là một bớ quyết nhà nghề. Khoảng cuối thế kỷ XIV về trước, men ngọc đó được chế tạo từ hai thành phần chớnh là đất sột trắng phường Bạch Thổ và ụxit đồng dạng bột tỏn nhỏ. Từ thời Lờ sơ trở đi (đầu thế kỷ XV), người thợ Bỏt Tràng đó chế tạo ra loại men gio, cú màu trắng đục. Đõy là loại men được chế từ ba thành phần chớnh là: đất sột trắng phường Bạch Thổ, vụi sống để tởi, gio cõy Lõu cụt và gio Sung, cũng cú khi họ dựng gio trấu của làng Quế, làng Lường. Ngoài men gio, người thợ Bỏt Tràng đó chế ra loại men nõu sụcụla. Men này bao gồm men gio cộng thờm 5% đỏ thối (hỗn hợp ụxit sắt -mangan) lấy từ Phự Lóng (Bắc Ninh).
Cũng từ thế kỷ XV, người thợ Bỏt Tràng đó chế được loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đỏ đỏ (ụxit coban), đỏ thối (ụxit mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men ỏo. Men này phỏt màu ở nhiệt độ: 125 độ C. Cho đến đầu thế kỷ XVII, một loại men mới đó được khỏm phỏ là men rạn, đõy là loại men được điều chế từ vụi sống, gio trấu và riờng thành phần cao lanh Tử Lạc trắng được thay thế bởi cao lanh màu hồng nhạt lấy tại chựa Hội (Bớch Nhụi -Hải Dương). Tỷ lệ của ba thành phần này được thờm gia giảm để tạo ra cỏc loại men rạn khỏc nhau.
Bao nung được coi là một trong những khõu quan trọng của kỹ thuật nung. Chớnh những viờn gạch vuụng - sản phẩm đặc biệt của lũ gốm Bỏt Tràng, xuất hiện là do yờu cầu của cấu trỳc lũ, đồng thời cũng là những bao nung sản phẩm.
ở Bỏt Tràng cũn truyền tụng đụi cõu đối ca ngợi kỹ thuật nung gốm:
Bạch lĩnh chõn truyền nờ tỏc bảo
Hồng lụ đào chỳ thổ hành kim.
Nghĩa là:
Nỳi đất trắng truyền nghề, bựn thành vật quý
Lũ rực hồng hun nặn, đất hoỏ nờn vàng.
Giải quyết xong vấn đề xương gốm, tạo dỏng men, bao nung, người thợ quan tõm đến việc chế ngự lửa. Để tạo ra được ngọn lửa hữu ớch, người thợ gốm Bỏt Tràng khụng những tiếp thu những điểm ưu việt của cỏc lũ gốm địa phương khỏc, mà cũn khụng ngừng cải tiến, hoàn thiện và sử dụng nhiều loại lũ khỏc nhau. Cho đến nay, ở Bỏt Tràng đó sử dụng cỏc kiểu lũ ếch, lũ đàn, lũ bầu và lũ hộp.
Lũ ếch là một kiểu lũ gốm cổ nhất nước ta. Nú được hoàn thiện dần nhằm tăng nhiệt độ trong lũ, dung tớch chứa sản phẩm, và đặc biệt là hệ thống thụng khúi kết hợp với việc giữ nhiệt và điều hoà nhiệt trong bầu lũ. Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu qua tài kiệu khai quật khảo cổ học ở Hà Bắc và Hải Hưng cho biết cú thể phục hồi kiểu lũ ếch cổ của Bỏt Tràng. Kiểu lũ này cú dỏng như một con ếch nằm; dài khoảng 7 m, bề ngang chỗ phỡnh rộng nhất khoảng 3 ( 4m, cửa lũ rộng khoảng 1,2m và cao 1m. Đỏy lũ phẳng, nằm ngang. Vũm lũ cao từ 2m đến 2.70m. Bờn hụng lũ cú một cửa ngỏch rộng khoảng 1m, cao 1,2m để ngư