Bài báo đề cập đến phát triển du lịch văn hóa thông qua một số lễ hội mùa xuân của dân tộc
Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La: Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh
Nhai, lễ hội đền vua Lê Thái Tông, lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La, lễ hội Hết Chá tại Mộc Châu. Bài báo
cũng phân tích thực trạng lễ hội hiện nay và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn
tỉnh Sơn La.
12 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch văn hoá Sơn La qua lễ hội mùa xuân, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
120
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 7 (12/2016) tr 120 - 131
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ SƠN LA QUA LỄ HỘI MÙA XUÂN,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyễn Thị Huyền, An Thị Hồng Hoa
Trung tâm Nghiên cứu văn hoá các dân tộc Tây Bắc, Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Bài báo đề cập đến phát triển du lịch văn hóa thông qua một số lễ hội mùa xuân của dân tộc
Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La: Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh
Nhai, lễ hội đền vua Lê Thái Tông, lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La, lễ hội Hết Chá tại Mộc Châu. Bài báo
cũng phân tích thực trạng lễ hội hiện nay và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn
tỉnh Sơn La.
Từ khoá: du lịch văn hoá, lễ hội truyền thống, các dân tộc Sơn La
1. Mở đầu
Sơn La được biết đến là vùng đất chứa đựng nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc về
ẩm thực, phong tục tập quán, các di tích lịch sử văn hoá, trong đó lễ hội là một thành tố quan
trọng cấu thành nên đặc trưng văn hoá các tộc người. Lễ hội đã trở thành một phần không thể
thiếu, là món ăn tinh thần có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của đồng bào các dân tộc nơi
đây. Bởi vậy, nghiên cứu và giới thiệu về một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu ở Sơn La có ý
nghĩa thiết thực nhằm phát hiện những nét đặc trưng, riêng biệt của các dân tộc Sơn La; góp
phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp đó; đồng thời góp phần quảng bá cho các lễ
hội nhằm thu hút khách du lịch đến với Sơn La nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung ngày
càng nhiều hơn.
2. Nội dung
2.1. Lễ hội và du lịch văn hoá
2.1.1. Du lịch văn hoá
Hiện nay, du lịch có rất nhiều hình thức như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du
lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục, du lịch chữa bệnh trong đó du lịch văn hóa được xác định
là loại hình phù hợp với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam. Du lịch văn hóa được hiểu là “hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa
dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống” [3]. Du lịch văn hóa có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển; đồng thời mang lại nguồn lợi lớn cho cư dân, góp
phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của địa phương; cùng với đó, du lịch văn hóa còn
nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, quảng bá hình ảnh tươi
đẹp của quê hương đất nước đến với du khách từ khắp mọi nơi.
Với loại hình du lịch văn hóa, “tiềm năng phát triển chủ yếu dựa vào những sản phẩm
văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng để tạo ra
sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới” [3]. Như vậy, để phát
Ngày nhận bài: 16/9/2016. Ngày nhận đăng: 25/12/2016
Liên lạc: Nguyễn Thị Huyền, e - mail: Nguyenhuyenth1990@gmail.com
121
triển được loại hình du lịch này yếu tố chính là phải dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa
dạng trong bản sắc văn hoá tộc người, trong đó lễ hội – nơi kết tinh các giá trị văn hoá, tinh
thần từ ngàn xưa để lại của mỗi tộc người trở thành thành tố quan trọng nhất.
2.1.2. Lễ hội
Lễ hội có thể hiểu là“hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân
cư trong thời gian và không gian xác định nhằm nhắc lại một sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử
hay một huyền thoại, đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với
thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội” [3]. Lễ hội thường gồm 2 phần, phần lễ và
phần hội. “Lễ là những nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa
nào đó” [2], “Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt” [2]. Như vậy có thể thấy, “lễ” và “hội” là hai yếu tố có “mối quan hệ
tương hỗ tồn tại trong sự thống nhất” [1]. Trong một cuộc lễ với quy mô từ cấp làng bản trở
lên bao giờ cũng phải có “phần hội”, đồng thời không có hội nào không kèm theo lễ. Lễ và
hội luôn quyện vào nhau, bổ sung cho nhau, cùng phản ánh hiện thực của cuộc sống. Vì thế,
có người gọi là “lễ hội” nhưng cũng có người gọi là “hội lễ” tuỳ thuộc vào từng loại lễ hội
mà nhấn mạnh mặt này hay mặt kia.
Trong thực tế, xã hội ngày càng phát triển, lễ hội càng đóng vai trò quan trọng trong
đời sống văn hoá của cộng đồng, nhất là đối với khu vực miền núi nơi có đông thành phần
dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi cộng đồng, mỗi tộc người đều có những lễ hội khác nhau về
nội dung, phương thức, cách thức thể hiện song nét chung của các lễ hội đều nhằm thoả mãn
các nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần không chỉ đối với bản thân các dân tộc khởi thuỷ
của lễ hội mà còn có ý nghĩa đối với cả cộng đồng. Tham dự lễ hội, du khách sẽ cảm nhận
được các sắc thái văn hoá khác nhau của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền.
2.2. Một số lễ hội mùa xuân tiêu biểu của người Thái tỉnh Sơn La
Sơn La là tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, hiện có 12 dân tộc sinh
sống gồm Mông, Dao, Thái, Mường, Kinh, Kháng, Tày, Hoa, Lào, Xinh mun, Khơ mú, La ha.
Trong đó cộng đồng người Thái chiếm khoảng 54% dân số toàn tỉnh. Bên cạnh những điểm
nổi bật, làm nên nét riêng của văn hoá Sơn La như ẩm thực, nhà cửa, trang phục truyền
thống lễ hội đã trở thành một nét văn hoá đặc trưng của đồng bào nơi đây. Lễ hội của đồng
bào các dân tộc Sơn La rất đa dạng. Lễ hội thể hiện rõ nét nhất đặc trưng văn hoá của từng tộc
người. Chẳng hạn với người Mông, các lễ hội hầu hết đều mang tính chất gia đình, dòng họ.
Với người Thái, lễ hội thường mang tính chất cộng đồng, rộng khắp Là tộc người chiếm đa
số cùng với lịch sử cư trú lâu đời ở vùng đất này, văn hoá của cộng đồng người Thái đã trở
thành nền văn hoá chủ đạo, có tính chất bao trùm không chỉ đối với địa bàn Sơn La mà còn
trải dài khắp miền Tây Bắc. Dưới ảnh hưởng của quá trình giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hoá
Thái dù ít hay nhiều đã có những tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào đời sống văn hoá của
các tộc người khác trong khu vực như người Kháng, người Tày, thậm chí người Kinh khi họ
di cư đến vùng đất này. Chính vì thế, trong bài báo này, chúng tôi tập trung giới thiệu về một
số lễ hội mùa xuân nổi bật của người Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La, qua đó phân tích về thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hoá của tỉnh nhà.
122
2.2.1. Lễ hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà huyện Quỳnh Nhai
Quỳnh Nhai là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Sơn La, cách trung tâm tỉnh
lỵ khoảng 60 km dọc tuyến quốc lộ 279 theo hướng đông bắc đi Than Uyên (Lai Châu). Từ
lâu, vùng đất Quỳnh Nhai đã được biết đến với nhiều lễ hội truyền thống độc đáo như lễ Gội
đầu, lễ Kin pang then (ăn mừng mệnh trời), tết Xíp xí (tết 14 tháng 7 âm lịch) trong đó, lễ
hội đền Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà là lễ hội văn hoá tiêu biểu nhất
trong năm. Thực chất, ban đầu đây chỉ là lễ hội của người Thái trắng được tổ chức với quy
mô nhỏ trong các bản làng. Vì cuộc sống của cư dân nơi đây phần lớn gắn liền với dòng sông
Đà, vì thế sông nước có mối quan hệ mật thiết với đời sống người dân. Bà con nơi đây quan
niệm rằng, những ai giỏi chèo thuyền là những người có khả năng chinh phục sông nước và
thuận lợi trong làm ăn. Bởi vậy, ngay từ rất sớm các cuộc đua thuyền với quy mô nhỏ đã dần
xuất hiện. Từ năm 2011, sau khi được tỉnh Sơn La lựa chọn, nghiên cứu phục dựng, lễ hội đền
Nàng Han và đua thuyền trên sông Đà đã trở thành lễ hội thường niên, là ngày hội lớn của
toàn thể các dân tộc trong huyện.
Đền Nàng Han hiện toạ lạc trên khu vực đồi Pú Nghịu xã Mường Giàng, cách trung
tâm huyện Quỳnh Nhai khoảng 2 km và cách địa điểm tổ chức hội đua thuyền truyền thống
tại khu vực chân cầu Pá Uôn xã Chiềng Ơn khoảng 3 km. Từ lâu, đền thờ Nàng Han đã được
biết đến là một di tích lịch sử, văn hoá nổi tiếng của vùng đất Quỳnh Nhai. Ngôi đền là nơi
ghi dấu chiến công oanh liệt của vị nữ tướng Nàng Han đã có công lãnh đạo nhân dân 16 châu
Thái đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại bình yên cho xứ sở, bản
mường. Truyền thuyết về Nàng Han như một bản anh hùng ca ăn sâu vào đời sống tín ngưỡng
của đồng bào Thái nói riêng và đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc nói chung. Câu chuyện đó
được lưu truyền qua các thế hệ và trở thành một mạch nguồn xuyên suốt nối liền quá khứ,
hiện tại và tương lai. Nàng Han đã trở thành một biểu tượng thiêng liêng, bất tử về chủ nghĩa
anh hùng và lòng tự tôn dân tộc.
Lễ hội Nàng Han và đua thuyền truyền thống trên sông Đà thường được tổ chức vào
ngày 10 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội là dịp để cộng đồng người Thái nói riêng và cộng
đồng các dân tộc huyện Quỳnh Nhai nói chung tưởng nhớ và thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối
với công lao của Nàng Han và các vị tiền bối đã có công trong việc bảo vệ bản mường, quê
hương trong quá khứ. Qua đó góp phần tăng cường, giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương
bản mường, luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh để bảo vệ sự bình yên cho quê hương của mỗi
cá nhân, đặc biệt là lớp thế hệ trẻ hôm nay. Lễ hội Nàng Han đáp ứng nhu cầu về mặt tín
ngưỡng tâm linh của đồng bào Quỳnh Nhai - cầu mong sự chở che, phù hộ của các vị thần
linh cho năm mới được mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, nhân dân có cuộc sống no ấm,
hạnh phúc. Hội đua thuyền truyền thống trên sông Đà là dịp để đồng bào vui chơi, giao lưu và
cũng là hình thức để gìn giữ và phát triển các giá trị văn hoá mà cha ông đã để lại từ ngàn
xưa. Vì vậy, lễ hội hàng năm vẫn thu hút được sự quan tâm của hàng nghìn khách du lịch và
nhân dân địa phương.
123
2.2.2. Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban thành phố Sơn La
Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa ban là hai lễ hội lớn, lần đầu tiên
được UBND thành phố Sơn La tổ chức với quy mô cấp thành phố vào năm 2015. Đây là “lễ
hội kép” được tổ chức song song nhau trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến hết ngày 17
tháng Giêng với mục tiêu vừa đảm bảo trang trọng về phần lễ được tổ chức tại khu vực đền
thờ vua Lê Thái Tông, vừa tạo nên không khí vui tươi phấn khởi cho bà con nhân dân trong
ngày hội với các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống được tổ
chức tại lễ hội Mùa hoa Ban.
Lễ hội đền thờ vua Lê Thái Tông được tổ chức tại khu di tích lịch sử - văn hoá đền thờ
vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế. Khu di tích nằm phía bên trái (hướng đi
huyện Mường La), cách trục đường Lò Văn Giá khoảng 500 m, thuộc địa bàn tổ 3, phường
Chiềng Lề, thành phố Sơn La.
Đền thờ vua Lê Thái Tông và văn bia Quế Lâm ngự chế là khu di tích nổi tiếng, có giá
trị lịch sử thiêng liêng của thành phố Sơn La. Nơi đây minh chứng cho một thời kì hào hùng,
oanh liệt của vị minh quân Lê Thái Tông, khi ông lần đầu tiên thân chinh đưa quân lên miền
biên giới của Tổ quốc dẹp loạn quân phản nghịch Thượng Nghiễm ở châu Mường Muổi (nay
là Thuận Châu - Sơn La) năm 1440. Sau chiến thắng, trên đường trở về Thăng Long, vua
cùng quân sĩ đã dừng chân nghỉ tại Động La (người dân địa phương còn gọi bằng một tên gọi
khác là Thẳm Báo Ké – hang Báo Ké). Trước khung cảnh non sông hùng vĩ, với tầm nhìn
chiến lược cùng tâm hồn thi sĩ của một vị vua yêu nước, ông đã cho quân sĩ khắc lên vách núi
bài thơ gồm 56 chữ Hán, làm với thể thất ngôn bát cú Đường luật với tựa đề “Quế Lâm ngự
chế” (Nơi vua Quế Lâm ngự chế). Bởi thế, khu đền thờ vua Lê Thái Tông còn được nhiều
người biết đến với cái tên Đền Quế Lâm ngự chế. Di tích văn bia Quế Lâm ngự chế được phát
hiện năm 1965 và được Bộ Văn hoá Thông tin xếp bằng di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia
ngày 5/2/1994. Ngày nay khi có dịp đến thăm khu đền, chúng ta vẫn sẽ được chiêm ngưỡng
bút tích của bài thơ trên vách đá cao thẳng đứng với những nét khắc còn khá rõ ràng. Từ di
tích văn bia đi xuống, rẽ theo hướng bên phải khoảng 200 m, chúng ta sẽ đến được khu đền
thờ vua Lê Thái Tông. Khu đền này được được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 2001 và
khánh thành vào ngày 22/1/2003 với diện tích 800 m2 theo hướng nam chếch đông và được
xây theo lối kiến trúc của những ngôi đền cổ Việt Nam gồm các hạng mục: cổng tam quan,
sân đền, nhà tả hữu mạc, toà đại bái và hậu cung.
Đối với bà con nhân dân thành phố Sơn La nói riêng và toàn thể cộng đồng các dân
tộc tỉnh Sơn La nói chung, từ lâu khu di tích đền thờ vua Lê Thái Tông đã trở thành điểm văn
hoá tâm linh thiêng liêng. Theo lệ, cứ đến ngày rằm, mùng 1 hay dịp lễ tết, các chư hội, tăng
ni phật tử cùng đông đảo bà con nhân dân lại tụ hội về đây, dâng nén hương thơm cầu bình an
may mắn hay đơn giản chỉ là vãn cảnh đền để mỗi người có thời gian tĩnh tâm, cân bằng lại
cuộc sống sau những bộn bề lo toan thường ngày.
Chính vì vậy, tổ chức lễ hội đền Lê Thái Tông là việc làm thiết thực và có ý nghĩa xã
hội to lớn: Lễ hội nhằm tôn vinh công lao của vua Lê Thái Tông, các tướng sĩ và nhân dân có
công trong lịch sử dựng nước và giữ nước nói chung, bảo vệ biên giới miền Tây Bắc nói
124
riêng. Lễ hội chính là dịp để ôn lại truyền thống cách mạng cho nhân dân các dân tộc thành
phố Sơn La, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và kế
thừa sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, lễ hội góp phần thiết thực phục vụ nhu cầu
hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân các dân tộc trong và
ngoài tỉnh. Tạo ra các hoạt động văn hoá, thể thao sôi nổi lành mạnh, phát huy tinh thần đoàn
kết, sáng tạo của nhân dân.
Với mục tiêu như vậy nên lễ hội đền Lê Thái Tông và lễ hội Mùa hoa Ban không tổ
chức rườm rà về phần lễ mà phần lớn chú trọng vào phần hội với các trò chơi dân gian phong
phú. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều hoạt động văn hoá dân gian được tổ chức đã thu hút
sự quan tâm và nhiệt tình tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Chương trình ca múa
nhạc luôn là những tiết mục mở màn của lễ hội, bên cạnh đó còn nhiều hoạt động khác như
trưng bày sinh vật cảnh, thi ẩm thực, thi xoè, thi đấu các môn thể thao và trò chơi dân gian
truyền thống như kéo co, đi cà kheo, tó má lẹ, tung còn, thi bắt cá, chọi gà, chọi chim Đây
đều là những hoạt động hết sức quen thuộc, gắn liền với đời sống văn hoá thường ngày của
đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Bởi vậy, lễ hội không chỉ nhằm gìn giữ và phát huy các nét
đẹp văn hoá truyền thống vốn có của đồng bào nơi đây mà còn góp phần tăng cường tình đoàn
kết trong cộng đồng các dân tộc. Đồng thời, qua các hoạt động này, du khách tham dự lễ hội
cũng phần nào có thể thấy được các nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc
Sơn La.
2.2.3. Lễ hội Hết chá của người Thái trắng xã Đông Sang huyện Mộc Châu
Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp bậc nhất khu vực miền núi phía bắc,
với khí hậu mát mẻ quanh năm. Nơi đây nổi tiếng với nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như
hang Dơi, thác Dải Yếm, khu hồ sinh thái và rừng thông bản Áng (xã Đông Sang), đồi chè,
hàng năm đón hàng triệu lượt khách đến thăm quan và nghỉ dưỡng. Mộc Châu hiện có 12 dân
tộc anh em cùng sinh sống, trong đó cộng đồng người Thái chiếm số lượng khoảng 1/3 dân số
toàn huyện. Đến với Mộc Châu, du khách không chỉ được thưởng thức những cảnh quan thiên
nhiên đẹp, ẩm thực phong phú, bên cạnh đó lễ hội cũng là một phần quan trọng làm nên nét
văn hoá độc đáo của vùng đất và con người nơi đây. Mộc Châu có nhiều lễ hội như lễ hội
Mùa hoa ban, lễ hội Hết chá, lễ hội Cầu mùa thường được tổ chức vào mùa xuân hàng năm.
Lễ hội Hết chá là lễ hội đặc sắc của người Thái trắng bản Áng, xã Đông Sang (huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La) được tổ chức vào ngày 26 tháng 3 hàng năm, tại gốc đa trên đồi gần
trung tâm bản. Lễ hội Hết chá thực chất là “lễ tạ ơn của những người được thầy mo chữa cho
khỏi bệnh, lễ tạ ơn trời đất, tổ tiên, thần sông, thần núi, thần thổ địa đã giúp cho con người
sống ở trần gian duy trì được cuộc sống, đoàn kết xây dựng bản làng, cầu cho người khang
vật thịnh, mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu” [4].
Về nguồn gốc lễ hội Hết chá, chuyện kể lại rằng: xưa kia người Thái rất nghèo, không
có tiền mua thuốc chữa bệnh, thường phải đến nhờ thầy mo. Thầy mo dùng mẹo và nhờ thần
linh nên đã chữa được bệnh cho dân làng. Mang ơn thầy mo, nhiều người xin được làm con
nuôi của ông. Và rồi, cứ mỗi dịp cuối năm (vào 29, 30 Tết), con cháu lại đến tạ ơn thầy mo,
125
nhưng thời điểm đó đang bận rộn chuẩn bị đón tết nên thầy mo ấn định lễ tạ ơn sẽ tổ chức vào
tháng 3 hàng năm. Cũng từ đó lễ hội Hết chá được hình thành.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu
số vùng Tây Bắc hầu như không còn được duy trì và dần bị mai một theo năm tháng. Lễ hội
Hết chá cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 5 khoá
VIII của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”, năm 2005 cấp uỷ, chính quyền bản Áng xã Đông Sang đã ra nghị quyết phải khôi phục
các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Lễ hội Hết chá là một trong
những lễ hội truyền thống của người Thái trắng bản Áng được chi bộ lựa chọn để khôi phục,
bảo tồn và truyền lại cho con cháu đời sau.
Lễ hội Hết chá gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức tại Nhà văn
hoá bản Áng, ngay bên gốc đa cổ thụ do thầy mo thực hiện. Lễ vật dâng cúng được các già
làng và dân bản sắp, bày gồm có gà, vịt, lợn, xôi, rượu, các công cụ trừ tà và đặc biệt không
thể thiếu là dâng hoa ban, hoa mạ thể hiện khát khao của người dân về cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đoàn kết; đồng thời phê phán những cái xấu và khích lệ những cái hay, cái đẹp trong
cuộc sống. Phần hội diễn ra ngay sau khi phần lễ kết thúc. Phần hội thường diễn ra các hoạt
động vui chơi giải trí như thi đánh trống xoè, múa sạp; thi ẩm thực, nấu cơm; thi các môn thể
thao, các trò chơi dân gian như kéo co, tung còn với sự tham gia của toàn thể bà con dân
bản.
Lễ hội Hết chá là một hình thức sinh hoạt văn hóa quan trọng, mang đậm bản sắc của
tộc người Thái trắng bản Áng xã Đông Sang, huyện Mộc Châu. Một mặt lễ hội là một nghi lễ
mang tính tâm linh, là niềm tin của con người đối với cuộc sống, với thiên nhiên. Mặt khác lễ
hội cũng thể hiện tính nhân văn, tôn vinh thầy thuốc với những nghi lễ bày tỏ lòng biết ơn,
cảm tạ người đã chữa khỏi bệnh cho người dân, bản làng, các gia đình... để cuộc sống nhân
dân được yên bình. Với những ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 26/3/2016, Uỷ ban nhân dân huyện
Mộc Châu đã làm lễ đón nhận lễ hội Hết chá bản Áng xã Đông Sang là di sản văn hoá phi vật
thể cấp quốc gia.
2.3. Thực trạng lễ hội hiện nay
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá độc đáo, làm nên nét riêng của mỗi dân tộc, đặc
biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số miền núi. Đồng thời, lễ hội cũng là sợi dây vô hình,
là cầu nối tình cảm giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, với bản
làng, quê hương xứ sở của mình. Trong những năm qua, với sự quan tâm, đầu tư của Nhà
nước và địa phương, nhiều lễ hội văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn
tỉnh Sơn La đã được phục dựng và có nhiều nét chuyển biến mới. Nhìn chung, lễ hội của các
dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay đều có chung đặc điểm là đơn giản về phần lễ, còn phần
hội lại được tổ chức hết sức náo nhiệt và sôi động. Lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân
– thời điểm nông nhàn, theo các nghi lễ truyền thống và có nhiều trò chơi dân gian vì thế thu
hút được sự quan tâm của khá đông người dân. Dựa trên tài liệu sưu tầm và quá trình tham gia
trực tiếp một số lễ hội văn hóa trong tỉnh nêu trên, chúng tôi có thể nhận thấy tiềm năng phát
126
triển du lịch văn hoá, du lịch lễ hội của Sơn La là rất lớn nhưng hiện vẫn chưa khai thác được
đúng mức.
2.3.1. Hầu hết các lễ hội trên địa bàn tỉnh vẫn được tổ chức với quy mô nhỏ lẻ trong thời
gian ngắn, chủ yếu vẫn được tổ chức dưới dạng nguyên sơ chưa nh