Trong xu thế hội nhập giáo dục quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển năng
lực học tập và năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất cần thiết. Sinh viên chuyên
ngành Sư phạm Mĩ thuật mai sau trở thành giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các
trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, sinh viên cần tự rèn luyện và nâng cao
các kĩ năng của nhà khoa học tương lai để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn
đề về nghệ thuật, về giáo dục nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 643 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành sư phạm mĩ thuật Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật
188
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0018
Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 188-195
This paper is available online at
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH SƯ PHẠM MĨ THUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Nguyễn Thu Tuấn
Khoa Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập giáo dục quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển năng
lực học tập và năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất cần thiết. Sinh viên chuyên
ngành Sư phạm Mĩ thuật mai sau trở thành giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các
trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, sinh viên cần tự rèn luyện và nâng cao
các kĩ năng của nhà khoa học tương lai để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn
đề về nghệ thuật, về giáo dục nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay.
Từ khóa: Năng lực nghiên cứu khoa học; chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật; sinh viên Mĩ
thuật.
1. Mở đầu
Đào tạo (ĐT) và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các
trường đại học (ĐH). Tuy nhiên, khác với hoạt động ĐT, hoạt động NCKH thường chỉ được sinh
viên (SV) biết đến khi các em bước vào môi trường giảng đường. Nếu như người thầy đồng thời
vừa giảng dạy, vừa NCKH thì SV cũng cần phải học tập và kết hợp NCKH. Vì vậy, việc tiếp cận
và phát triển năng lực (NL) học tập và NL NCKH của SV là rất cần thiết và cấp bách, phù hợp
với yêu cầu đổi mới giáo dục (GD) ở nước ta hiện nay. Hoạt động này sẽ giúp SV dần tiếp cận,
làm quen với phương pháp, kĩ năng nghiên cứu, rèn luyện tư duy logic, khoa học, kích thích sự
hứng thú tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức khoa học mới, khám phá bản chất và các quy luật vận
động của tự nhiên, xã hội [1, 2]. Chính vì vậy, tập trung ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao và
chú trọng tới hoạt động NCKH đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội là một chủ trương đúng đắn
nhằm góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT thì
hoạt động NCKH càng trở nên hết sức quan trọng và cần thiết [3, 4].
- Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động NCKH, từ nhiều năm qua, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội (ĐHSPHN) thường xuyên coi trọng, tổ chức có nề nếp hoạt động NCKH của SV.
Ngày nhận bài: 28/5/2017. Ngày chỉnh sửa: 09/08/2017. Ngày nhận đăng: 12/08/2017.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Tuấn, e-mail: thutuan.dhsphn@gmail.com
Nguyễn Thu Tuấn
189
Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho SV trong công tác NCKH, do đó thành tích
NCKH của SV ngày càng được nâng cao. Hằng năm, các Hội nghị SV NCKH cấp Khoa, cấp
Trường được tổ chức đều đặn, tạo một môi trường học thuật sôi nổi, góp phần quan trọng nâng
cao chất lượng ĐT của nhà trường, biến quá trình ĐT thành quá trình tự ĐT và hình thành tư duy
nghiên cứu ở SV. Trong điều kiện đổi mới căn bản và toàn diện GD, trong đó có GD đại học
(ĐH) hội nhập vào nền GD ĐH khu vực và thế giới thì hoạt động NCKH của SV đã thực sự trở
thành một tâm điểm trong công tác ĐT của nhà trường. Nhiều công trình khoa học xuất sắc của
SV đã đoạt giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam, giải thưởng SV NCKH cấp Bộ [5]. Tham
gia NCKH là cơ hội để SV tìm hiểu sâu kiến thức chuyên ngành, vận dụng kiến thức được học
trên giảng đường vào các vấn đề của thực tiễn, tự rèn luyện và nâng cao các kĩ năng của nhà khoa
học tương lai, được làm việc và học tập tác phong, kinh nghiệm làm khoa học thông qua cán bộ,
giảng viên hướng dẫn Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng ĐT của nhà trường, đáp ứng yêu
cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kì mới [6]. Chính từ hoạt động NCKH này, các SV của
trường đã từng bước trưởng thành và có thêm động lực vững bước trên chặng đường NCKH tiếp
theo, nhiều SV đã trở thành các nhà khoa học trẻ tài năng, đóng góp xuất sắc trên nhiều lĩnh vực
khoa học, kĩ thuật, công nghệ, được xã hội ghi nhận và tôn vinh. Nhiều SV tốt nghiệp từ trường
ĐHSPHN không chỉ trở thành giáo viên (GV) giỏi mà còn trở thành các nhà NCKH giàu tiềm
năng. Qua đó góp phần khẳng định vị thế và uy tín của trường ĐHSP trọng điểm đầu ngành của
cả nước.
- SV chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật (SPMT) là những người được ĐT chuyên nghiệp để sau
này trở thành GV Mĩ thuật ở trường phổ thông hoặc trở thành giảng viên Mĩ thuật ở một số
trường/khoa sư phạm. Để góp phần nâng cao chất lượng GD phổ thông, đối với SV chuyên
ngành SPMT, bên cạnh hoạt động học tập, họ cần phải NCKH để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu
bản chất các vấn đề về nghệ thuật, về GD nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy
sau này của mình. Vì vậy, SV Mĩ thuật phải được ĐT, bồi dưỡng để phát triển đầy đủ các phẩm
chất, NL nghề nghiệp của người GV trường phổ thông – trong đó có NL NCKH. Trong Quy định
Chuẩn nghề nghiệp GV THCS, THPT được ban hành theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT
ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã xác định rõ các NL NCKH của GV phổ thông
(được quy định cụ thể ở các tiêu chí số 6, số 7 và số 25) [7]. Với quy định này, đòi hỏi các cơ sở
ĐT GV (trong đó có khoa Nghệ thuật của trường ĐHSPHN) cần phải quan tâm, bồi dưỡng để
phát triển NL NCKH cho SV chuyên ngành SPMT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vượt
trội của SV trường ĐHSPHN đạt được như trên, trong nhiều năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan, hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật còn bộc lộ quá nhiều hạn chế và
bất cập, cần sớm khắc phục. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng hoạt động NCKH của SV chuyên
ngành SPMT trường ĐHSPHN để đề xuất các giải pháp nhằm phát triển NL NCKH cho SV, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học của khoa Nghệ thuật trong bối cảnh mới hiện nay
là rất cần thiết và cấp bách, cần được ưu tiên triển khai thực hiện.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên chuyên ngành Sư
phạm Mĩ thuật khoa Nghệ thuật
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật
190
Điều tra khảo sát trên đối tượng giảng viên và SV chuyên ngành SPMT của khoa Nghệ thuật
trường ĐHSPHN, chúng tôi nhận thấy thực trạng yếu kém về NL NCKH có ở hầu hết các SV của
khoa. Thực trạng đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Nhiều năm qua, lãnh đạo khoa chưa sâu sát chỉ đạo chặt chẽ để xây dựng kế hoạch hoạt động
khoa học và công nghệ trong đơn vị - trong đó có hoạt động NCKH của SV, vì thế việc triển khai
thực hiện kế hoạch hoạt động NCKH của SV chưa kịp thời.
- Một số giảng viên chưa nhận thức đúng về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc
hướng dẫn SV NCKH.
- Không ít SV của khoa chưa thấu suốt đầy đủ được vị trí, tầm quan trọng của NCKH đối với
sự phát triển của bản thân; thiếu tự giác, chưa tích cực, thậm chí còn đặt nhiệm vụ NCKH ở hàng
thứ yếu (vì bị bắt buộc nên phải tham gia NCKH).
- Nhiều SV năm cuối còn chưa có ý tưởng nghiên cứu, các em không biết mình có thể nghiên
cứu cái gì và cái gì có thể được nghiên cứu. Có SV khi phải làm NCKH không biết bắt đầu từ
đâu, chưa biết diễn giải vấn đề mà mình quan tâm, chưa biết xây dựng cấu trúc đề cương nghiên
cứu của một tiểu luận, một bài báo khoa học, một khóa luận tốt nghiệp như thế nào. Đặc biệt là kĩ
năng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kĩ năng trình bày diễn đạt của SV còn rất lúng túng.
Vì vậy, chất lượng các khóa luận tốt nghiệp, các công trình nghiên cứu của SV trong khoa nhìn
chung là yếu; một số đề tài lặp đi lặp lại nhiều lần qua các khóa học, tạo nên sự đơn điệu, nhàm
chán. Tính ứng dụng của các đề tài còn thấp, nhất là trong lĩnh vực dạy và học của chuyên ngành
SPMT.
- Một số SV có khả năng học tốt các môn học thực hành (như: Hình họa, Trang trí, Bố cục)
nhưng khi bắt tay vào làm đề tài NCKH cũng rất lúng túng, bộc lộ nhiều hạn chế vì các em không
nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản trong NCKH, không nắm được cách tiếp cận vấn đề
nghiên cứu, hướng nghiên cứu, cách xác định đề tài nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu v.v
- Một hạn chế không thể không nhắc tới, đó là tình trạng chung của SV hiện nay (trong đó SV
chuyên ngành SPMT không nằm ngoại lệ) đến năm cuối của khóa học, khi làm khóa luận tốt
nghiệp, SV ít chịu tham khảo các tài liệu khoa học hoặc tham khảo các khóa luận, luận văn của
SV những khóa trước có cùng hướng nghiên cứu với đề tài của mình để giúp ích cho việc triển
khai thực hiện nghiên cứu được thuận lợi và có hiệu quả [8]. Với sự hiểu biết về NCKH vốn đã
hạn hẹp như vậy, cộng thêm nhận thức và ý thức kém trong việc tra cứu tài liệu tham khảo như
thế, nhiều SV của khoa Nghệ thuật đã gặp không ít khó khăn khi làm khóa luận tốt nghiệp.
2.2. Giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành
Sư phạm Mĩ thuật, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào hiện nay
Căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật trường ĐHSPHN
hiện nay, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây nhằm nâng cao NL NCKH cho SV chuyên
ngành SPMT, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của khoa:
2.2.1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Ban chủ nhiệm khoa
- BCN khoa Nghệ thuật cần xây dựng, triển khai tốt kế hoạch hoạt động NCKH của SV. Xây
dựng các đề án tăng cường NL NCKH cho đội ngũ giảng viên và SV của khoa. Ngoài ra, cũng
cần thay đổi các phương pháp và hình thức thực hiện. Cụ thể là: cần chú trọng giới thiệu lợi ích
và thành quả NCKH mang tính ứng dụng thực tiễn cao của SV khoa mình (có thể tổ chức công
Nguyễn Thu Tuấn
191
bố theo nhiều hình thức khác nhau như: quảng bá trên web của khoa, trên mạng xã hội, trên các
diễn đàn; trao đổi dưới dạng trực tuyến; gắn kết NCKH với những điều SV thường quan tâm;
thành lập câu lạc bộ những SV yêu thích NCKH để nhân điển hình trong toàn khoa). Từ đó,
khơi dậy trong SV của khoa một chân trời mới về khoa học, hứa hẹn nhiều đam mê thú vị trong
hoạt động NCKH của SV.
- Cần đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới cơ chế đánh giá, chỉ đạo sát sao hoạt động NCKH của
giảng viên và SV để đảm bảo cho hoạt động NCKH diễn ra đúng thực chất và mang lại hiệu quả
thực sự cho công tác dạy và học của khoa, của trường. BCN khoa cần triển khai kịp thời những
nội dung trong các công văn hướng dẫn hoạt động NCKH của nhà trường đến tất cả cán bộ, giảng
viên, SV để 100% SV được tham gia các hoạt động NCKH theo quy định của trường.
- Cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động học tập với NCKH: Trong quá trình dạy học
(DH), các giảng viên cần tăng cường tổ chức cho SV làm các bài tập lớn, tiểu luận, đổi mới
phương pháp dạy học ở ĐH theo hướng tăng cường hoạt động tự nghiên cứu của SV để giúp SV
sớm làm quen với hoạt động NCKH.
- Cần đề cao trách nhiệm của người giảng viên trong quá trình hướng dẫn SV NCKH. Rất cần
thiết phải có chế tài thực hiện nghiêm túc thì công tác này mới thực sự đạt hiệu quả cao.
- Cần chú trọng công tác thông tin về sản phẩm NCKH của SV nhằm tạo cho SV có cơ hội
được tiếp cận, nghiên cứu các sản phẩm thực tế; giúp SV định hướng và lựa chọn đề tài nghiên
cứu phù hợp với khả năng của bản thân và phù hợp với đặc thù ĐT chuyên ngành SPMT.
- Cần có chế độ khen thưởng kịp thời, thiết thực cho những SV tích cực tham gia NCKH và có
thành tích cao trong NCKH - đây là cơ sở để khích lệ, kích thích tính tích cực, say mê NCKH của
SV, làm cho các em thêm phấn khởi và yên tâm tham gia các hoạt động NCKH, từ đó có tác
dụng thúc đẩy và nâng cao chất lượng hoạt động NCKH và phát triển NL NCKH của SV trong
toàn khoa.
2.2.2. Nâng cao nhận thức của sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật về vị trí, vai trò
và tác dụng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với quá trình học tập tại trường
Hoạt động NCKH đã và đang mang lại những lợi ích không thể phủ nhận cho SV. Hoạt động
này đã trở thành một hình thức hỗ trợ học tập có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng ĐT, rèn
luyện chuyên môn, qua đó góp phần hoàn thiện các NL cần có của một nhà sư phạm, một nhà
khoa học trong tương lai, đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi của xã hội hiện đại.
Đối với SV chuyên ngành SPMT, muốn làm NCKH tốt phải có được những kiến thức và kĩ
năng cơ bản về NCKH (như: phương pháp sư tầm, tập hợp tư liệu, khả năng tổng hợp, phân tích,
diễn giải vấn đề, biết so sánh, giám định các loại tài liệu) để trên cơ sở đó hiểu được bản chất
và hiểu đúng các nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, SV SPMT còn phải có những kĩ năng khác như
vẽ hình minh họa, vẽ sơ đồ, biểu đồ, đồ thị Chính những kĩ năng đó đã giúp họ trưởng thành từ
NCKH, và sau này khi ra trường, họ có thể hướng dẫn một cách thuần thục cho HS ở trường phổ
thông [9].
Để khuyến khích, tạo động lực cho SV SPMT tham gia NCKH, trước hết phải nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động này cho SV. Phải làm cho mỗi SV hiểu rõ NCKH là
một hoạt động quan trọng của quá trình học tập, giúp SV hoàn thành tốt chương trình ĐT trong
nhà trường. Mặt khác, nó còn giúp SV hiểu rõ khả năng của mình khi tham gia NCKH, từ đó SV
có thái độ tích cực, tự giác tham gia NCKH.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật
192
Để giải pháp này có tính khả thi, BCN khoa Nghệ thuật cần thực hiện tốt công tác tuyên
truyền, GD để làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng, nhận thức của SV về hoạt động NCKH, làm
sao để mọi SV trong toàn khoa nhận thức được rằng học tập và NCKH đều rất quan trọng và có
mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Tham gia NCKH không chỉ là “phong trào” mà còn là
hoạt động tự ĐT hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng học tập của mỗi SV. Cùng với đó, Đoàn
thanh niên và Hội SV cần phải có những hoạt động thúc đẩy tuyên truyền, đưa các thông tin về
NCKH đến gần hơn nữa với SV, làm cho mỗi SV đều tự ý thức được tầm quan trọng của NCKH
và NCKH không phải là một hoạt động xa vời, mà rất thiết thực với chính bản thân SV [10].
2.2.3. Trang bị cho sinh viên lí thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực
giáo dục
Việc trang bị cho SV chuyên ngành SPMT lí thuyết về phương pháp NCKH thuộc lĩnh vực
GD nghệ thuật sẽ giúp họ nắm được các cơ chế sáng tạo nói chung và trong lĩnh vực GD nghệ
thuật nói riêng, cũng như các quan điểm tiếp cận đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực này và
nắm được logic tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật, từ
đó giúp SV SPMT tránh được sự mò mẫm và sai lầm có thể mắc phải trong quá trình nghiên cứu.
2.2.4. Trang bị cho sinh viên các kĩ năng nghiên cứu khoa học
Các kĩ năng trong NCKH là phương pháp thu thập, xử lý thông tin; phương pháp khảo sát,
điều tra, phỏng vấn, điền dã; cách xây dựng giả thuyết khoa học; cách đọc tài liệu tham khảo để
tìm và phát hiện vấn đề; cách trình bày đề cương của một tiểu luận, khóa luận, bài viết khoa học,
chuyên khảo khoa học; cách viết tiểu kết, kết luận; cách trình bày phụ lục; cách hành văn theo
văn phong khoa học v.v Tất các các yếu tố đó tổng hợp lại thành kĩ năng NCKH của một người
nghiên cứu, giúp họ trong quá trình thực hiện đề tài.
Đối với các SV nói chung và SV chuyên ngành SPMT nói riêng, các em thường rất lúng túng
khi NCKH vì chưa có kiến thức nền vững chắc và những thao tác chuẩn xác trong NCKH. Vì
vậy, người thầy cần trang bị cho SV những kiến thức và kĩ năng cơ bản về NCKH để SV hiểu
được bản chất của NCKH và những vấn đề xung quanh NCKH. Theo các chuyên gia về lĩnh vực
NCKH, nếu một người làm NCKH nắm chắc các kiến thức, các kĩ năng cơ bản trong nghiên cứu
thì người đó chắc chắn sẽ thành công. Điều đó cho thấy kiến thức và kĩ năng nghiên cứu là chìa
khóa để đạt tới hiệu quả cao trong NCKH. Tuy nhiên, kiến thức và kĩ năng NCKH của mỗi người
phải được tích lũy, rèn luyện thường xuyên qua nhiều năm tháng.
Chuyên ngành SPMT rất cần những công trình NCKH đi sâu vào các vấn đề về nghệ thuật, về
GD nghệ thuật. Không ai khác, chính SV SPMT là lực lượng nòng cốt trong những nghiên cứu
này, bởi họ sẽ là những GV Mĩ thuật trong tương lai, góp phần tạo nguồn năng khiếu nghệ thuật
từ môi trường GD phổ thông. Chúng tôi cho rằng, nếu SV chuyên ngành SPMT có năng lực
NCKH tốt thì chắc chắn sau này khi đứng trên bục giảng, họ sẽ rất tự tin và làm chủ được những
kiến thức mà họ đã được học, từ đó có phương pháp và hình thức tổ chức DH đúng đắn để truyền
đạt chuẩn xác những kiến thức về Mĩ thuật cho các thế hệ HS phổ thông.
2.2.5. Tổ chức cho sinh viên thực hiện những bài tập nhỏ, bài tập lớn, tiểu luận ở các môn
học lí thuyết chuyên ngành
Muốn SV SPMT có kiến thức về NCKH, có kĩ năng chuẩn xác trong nghiên cứu thì ngay từ
những năm học đầu, giảng viên nên lồng ghép NCKH vào các môn học lí thuyết chuyên ngành để
SV có điều kiện tiếp cận và làm quen sớm hơn với NCKH. Theo đó, SV có thể lồng ghép NCKH
thông qua các môn học như: Lịch sử Mĩ thuật Việt Nam, Lịch sử Mĩ thuật thế giới, Mỹ học, Mĩ
Nguyễn Thu Tuấn
193
thuật đại cương, GD nghệ thuật, Phương pháp dạy học Mĩ thuật Khi dạy các môn học này,
giảng viên nên hướng dẫn cho SV tìm các ý tưởng nghiên cứu thông qua làm các bài tập nhỏ, bài
tập lớn, tiểu luận; thông qua các hình thức thực hiện báo cáo kiến tập, thực tập; làm đề tài NCKH
hoặc khóa luận tốt nghiệp. Từ sự trải nghiệm này, SV được rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo,
được thực hành các kĩ năng phân tích, đánh giá, phản biện, giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không
phải SV nào cũng ý thức được những lợi ích đó. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy
truyền thông về NCKH đối với SV.
Đối với seminar, đây là một hình thức DH cơ bản ở trường ĐH. Với hình thức DH này, SV
được phát huy tối đa tính năng động và tích cực hoạt động, SV rèn luyện được tư duy phê phán,
có ý thức nghiên cứu sâu tài liệu liên quan đến chủ đề seminar, vì vậy SV phát huy được khả
năng tự học cao, từ đó các em phát triển ý thức làm chủ và có trách nhiệm trong học tập. Do vậy,
tăng cường các seminar khoa học trong DH ở trường ĐH là một hướng quan trọng để đáp ứng
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ĐH hiện nay [11].
2.2.6. Hướng dẫn sinh viên thực hiện và tham gia báo cáo đề tài khoa học tại Hội nghị sinh
viên nghiên cứu khoa học các cấp, và đăng bài trên tạp chí khoa học chuyên ngành
Công bố kết quả nghiên cứu là một bước quan trọng trong quá trình NCKH. Đối với SV
SPMT, việc công bố này có thể theo hai hình thức: Báo cáo tại Hội nghị SV NCKH (thậm chí là
ở Hội thảo khoa học lớn hơn) và đăng bài trên tạp chí khoa học chuyên ngành. Dù ở hình thức
nào thì vai trò hướng dẫn của giảng viên cũng rất quan trọng. Khi tham gia thực hiện đề tài
NCKH với giảng viên (hoặc với tổ chuyên môn), SV sẽ có cơ hội rèn luyện kĩ năng, phát triển
NL NCKH (thông qua việc thu thập tài liệu và nghiên cứu xử lí những vấn đề đặt ra) rồi đúc kết
viết thành bài báo khoa học đăng trong kỉ yếu của các hội nghị, hội thảo hay tạp chí chuyên
ngành [12]. Thiết nghĩ, với cách dạy và học như vậy sẽ rèn luyện và tạo cho SV cách làm
NCKH với sự sáng tạo theo phương pháp học tập mới. Bởi lẽ, suy cho cùng, NCKH chính là việc
hướng tới và giải quyết những vấn đề của thực tiễn xã hội. Như vậy, không cần phải chờ đến năm
cuối SV chuyên ngành SPMT mới được NCKH mà ngay từ những năm học đầu các em đã được
làm quen với NCKH thông qua các môn học lí thuyết chuyên ngành. Điều quan trọng là giảng
viên phải định hướng và khuyến khích các em làm NCKH với các dạng bài viết khoa học, các bài
tiểu luận của môn học. Dần dần như vậy, đến năm học cuối, SV đã có thói quen và những kĩ năng
cơ bản NCKH để thực hiện khóa luận tốt nghiệp và các công trình NCKH khác lớn hơn,