Dạy học theo hướng phát triển năng lực của người học đã và đang trở thành
một xu thế tất yếu trong giáo dục hiện nay. Một trong những năng lực quan trọng cần
hình thành và phát triển cho học sinh Trung học phổ thông là năng lực vận dụng kiến
thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sử dụng bài tập hoá học có nội dung thực tiễn
trong dạy học hóa học là một biện pháp có hiệu quả trong việc phát triển cho học sinh
Trung học phổ thông là năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề. Sử dụng,
khai thác có hiệu quả các thí nghiệm Hóa học theo hướng nghiên cứu cũng là một biện
pháp hữu hiệu phát triển cho học sinh Trung học phổ thông năng lực vận dụng kiến thức
để giải quyết các vấn đề. Bài viết trình bày việc sử dụng một số thí nghiệm đòi hỏi học
sinh phải có khả năng tư duy, vận dụng kiến thức đã học một cách linh hoạt, sáng tạo góp
phần đáng kể cho việc nâng cao năng lực của học sinh.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 16/06/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề cho học sinh THPT qua việc sử dụng thí nghiệm Hóa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN DỤNG KIẾN THỨC
ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHO HỌC SINH THPT
QUA VIỆC SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM HÓA HỌC
Phạm Văn Hoan1(1), Hoàng Đình Xuân2
1Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
2Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
Tóm tắt: Dạy học theo hướng phát triển năng lực của người học đã và đang trở thành
một xu thế tất yếu trong giáo dục hiện nay. Một trong những năng lực quan trọng cần
hình thành và phát triển cho học sinh Trung học phổ thông là năng lực vận dụng kiến
thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sử dụng bài tập hoá học có nội dung thực tiễn
trong dạy học hóa học là một biện pháp có hiệu quả trong việc phát triển cho học sinh
Trung học phổ thông là năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề. Sử dụng,
khai thác có hiệu quả các thí nghiệm Hóa học theo hướng nghiên cứu cũng là một biện
pháp hữu hiệu phát triển cho học sinh Trung học phổ thông năng lực vận dụng kiến thức
để giải quyết các vấn đề. Bài viết trình bày việc sử dụng một số thí nghiệm đòi hỏi học
sinh phải có khả năng tư duy, vận dụng kiến thức đã học một cách linh hoạt, sáng tạo góp
phần đáng kể cho việc nâng cao năng lực của học sinh.
Từ khóa: năng lực, năng lực vận dụng kiến thức, thí nghiệm Hóa học, học sinh THPT.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình dạy học Hóa học, thí nghiệm là một công cụ rất hữu ích giúp học sinh
minh họa kiến thức, kiểm chứng những dự đoán về mặt lí thuyết, cũng là một công cụ giúp
phát triển năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề thực tiễn gặp phải. Thí
nghiệm Hóa học cung cấp cho học sinh kiến thức, con đường giành lấy kiến thức và còn
mang lại niềm vui sướng của sự phát hiện, của việc vận dụng kiến thức giải quyết được
vấn đề gặp phải [4].
(1) Nhận bài ngày 04.08.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 20.08.2016
Liên hệ tác giả: Phạm Văn Hoan; Email: pvhoan@daihocthudo.edu.vn
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 91
2. NỘI DUNG
2.1. Năng lực vận dụng kiến thức của học sinh Trung học phổ thông
“Năng lực vận dụng kiến thức là khả năng của bản thân người học tự giải quyết những
vấn đề đặt ra một cách nhanh chóng và hiệu quả bằng cách áp dụng kiến thức đã lĩnh hội
vào những tình huống, những hoạt động thực tiễn để tìm hiểu thế giới xung quanh và có
khả năng biến đổi nó. Năng lực vận dụng kiến thức thể hiện phẩm chất, nhân cách của con
người trong qua trình hoạt động để thoả mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức” [1].
Từ khái niệm trên, người có năng lực vận dụng kiến thức (NLVDKT) có khả năng tiếp
cận, nhận thức được vấn đề trong nội dung bài học, trong bài tập hóa học có liên quan với
thực tiễn. Về thái độ, người có NLVDKT sẽ tích cực tham gia các hoạt động học tập theo
hướng tích cực để đạt hiệu quả nhất (ghi chép, đưa ra câu hỏi và tuân thủ các hoạt đồng
theo yêu cầu...). Đặc biệt, người có NLVDKT phải là người biết phát hiện vấn đề, tìm được
cách giải quyết vấn đề có trong nội dung bài học, trong các vấn đề học tập có nội dung liên
quan với thực tiễn, biết quan sát các hiện tượng thí nghiệm, thực tiễn đời sống và sử dụng
những kiến thức, kĩ năng hóa học để giải thích những sự vật, hiện tượng trong đời sống,
trong sản xuất và môi trường xung quanh. Để phát triển NLVDKT, người học phải biết thu
thập và xử lí thông tin, trình bày kết quả một vấn đề cần tìm hiểu trong thực tiễn và nêu
được phương hướng giải quyết vấn đề (GQVĐ) đó bằng những kiến thức, kĩ năng hóa học.
Để vận dụng được kiến thức vào những vấn đề thực tiễn, người học phải có khả năng điều
chỉnh một cách linh hoạt những kiến thức đã học (sơ đồ, quy trình làm việc, cơ chế phản
ứng, đặc điểm cấu tạo phân tử,...) cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra, người học cần biết
đưa ra những phương pháp, cách thức làm việc mới, phù hợp dựa trên cơ sở những kiến
thức đã được học, biết dự đoán kết quả, kiểm tra và kết luận, đánh giá và tự đánh giá kết
quả và có những đề xuất để hoàn thiện.
2.2. Biện pháp phát triển năng lực vận dụng kiến thức thông qua thí nghiệm
Hóa học
Để phát triển NLVDKT cho học sinh (HS), nên sử dụng kết hợp hệ thống các biện
pháp. Đầu tiên, phải hình thành cho HS một hệ thống kiến thức cơ bản vững vàng, sâu sắc.
Đó là hình thành các khái niệm, các định luật, các tính chất, các quy luật... Đây là tiền đề
quyết định đến sự phát triển của NLVDKTGQVĐ. Tiếp đó là rèn luyện cho HS năng lực tư
duy logic, chính xác. Thông qua các thao tác tư duy (quan sát, phân tích, tổng hợp...) và
dựa vào bản chất của vấn đề, HS sẽ tìm ra cách giải quyết ngắn gọn, sáng tạo.
Để đề xuất được cách giải quyết vấn đề thì năng lực tư duy khái quát tốt về các môn
học là rất cần thiết. Năng lực khái quát cao là khả năng phát hiện những nét chung, bản
92 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI
chất của nhiều vấn đề, nhiều đối tượng... để đưa vấn đề đó về một kiểu nhất định. Khi giải
bài tập hoá học, khả năng khái quát thể hiện ở chỗ HS biết phân dạng bài tập hoá học và
biết tìm phương pháp giải chung cho từng dạng bài [3, tr.5]. Khi tiến hành thí nghiệm Hóa
học, người học cần quan sát một cách cẩn thận các hiện tượng, gắn kết, liên hệ các hiện
tượng thí nghiệm với tính chất hóa học và liên hệ với đặc điểm cấu tạo phân tử của các
chất, gắn với các nhóm chức cụ thể.
Để tìm được cách giải quyết vấn đề, học sinh phải có khả năng độc lập suy nghĩ. Khi
đó, học sinh biết tự đặt ra vấn đề, giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết vấn đề, không
thoả mãn với những cái có sẵn, luôn luôn tìm ra cách giải quyết mới ngay cả trong các vấn
đề quen thuộc. Học sinh cần nhớ kĩ đặc điểm của chất hữu cơ “trong cùng điều kiện, phản
ứng của chất hữu cơ có thể xảy ra theo nhiều hướng khác nhau, do đó có thể sinh ra nhiều
sản phẩm khác nhau”. Mỗi loại nhóm chức có những tính chất đặc trưng, và ngược lại, một
số tính chất hóa học sẽ thể hiện cho một hoặc một số nhóm chức hóa học cụ thể. Một
điều nữa cần chú ý là sự biến đổi cấu tạo phân tử trong điều kiện cụ thể của môi trường
xung quanh.
2.3. Một số thí nghiệm được sử dụng để phát triển cho học sinh THPT năng lực
vận dụng kiến thức
Trong chương trình giáo dục THPT, số thí nghiệm Hóa học được thực hiện không
nhiều do những khó khăn về cơ sở vật chất cũng như quan điểm của những người xây
dựng chương trình. Nếu sử dụng một cách hợp lý các thí nghiệm này cũng có thể góp phát
triển cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề.
Đối với các thí nghiệm về Hóa Hữu cơ, việc phát triển năng lực vận dụng kiến thức
giải quyết vấn đề thường được xuất phát từ dự đoán, thực nghiệm và giải thích các kết quả,
hiện tượng thí nghiệm. Điều này liên quan đến vốn kiến thức của HS về cấu tạo phân tử,
liên kết hóa học và thực tiễn hóa học. Việc tiến hành thí nghiệm theo hướng nghiên cứu sẽ
góp phần tích cực trong việc phát triển cho học sinh NLVDKT để giải quyết vấn đề.
Trường hợp 1. Dự đoán các sản phẩm sinh ra trong một phản ứng hóa học
Khi tiến hành thí nghiệm của metan với clo, ngoài sản phẩm chính là metyl clorua
CH3Cl, có thể yêu cầu HS dự đoán các sản phẩm hữu cơ khác có thể được sinh ra. Trên cơ
sở phân tích đặc điểm cơ chế phản ứng thế này, HS có thể phát hiện được vấn đề: Bản chất
của phản ứng thế gốc là sự phân cắt liên kết C-H trong phân tử metan theo kiểu đồng li tạo
ra gốc tự do. Như vậy, trong phân tử metyl clorua vẫn còn 3 liên kết C-H cũng có thể bị
phân cắt đồng li, do đó có thể bị thế các nguyên tử H này. Từ đó có thể dự đoán các sản
phẩm hữu cơ khác như CH2Cl2, CHCl3,..
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 93
Trường hợp 2. Giải thích khả năng phản ứng của các chất
Thí nghiệm 1. Axetilen và etilen tác dụng với brom.
Đối với thí nghiệm etilen và axetilen tác dụng với brom trong dung dịch lại có thể khai
thác trực tiếp trên cơ sở quan sát các hiện tượng thí nghiệm.
Về mặt hình thức, do liên kết ba có mật độ electron cao hơn liên kết đôi, do đó có thể
suy đoán rằng axetilen sẽ phản ứng với brom nhanh hơn etilen. Tuy nhiên, khi quan sát thí
nghiệm HS thấy kết quả ngược lại: axetilen làm mất màu brom chậm hơn etilen ở trong
cùng điều kiện. Điều này mâu thuẫn với dự đoán.
Thí nghiệm 2. Axetilen và etilen tác dụng với dung dịch thuốc tím.
Một hiện tượng tương tự xảy ra khi cho axetilen và etilen tác dụng với dung dịch thuốc
tím (dung dịch KMnO4). Theo dự đoán như trên, khi sục khí axetilen vào dung dịch thuốc
tím thì sự nhạt màu của dung dịch sẽ xảy ra nhanh hơn khi sục khí etilen. Nhưng thực tế là
ngược lại.
Các hiện tượng thí nghiệm trên buộc HS phải suy nghĩ để tìm cách giải thích thực tế
thí nghiệm này. Có tính chất trên, HS phải suy nghĩ theo khía cạnh khác: Từ khái niệm
phản ứng hóa học, theo đó, là quá trình phá vỡ liên kết hóa học cũ và hình thành liên kết
hóa học mới. Như vậy, axetilen phản ứng với brom hoặc thuốc tím chậm hơn etilen là do
độ bền liên kết ba trong phân tử axetilen lớn hơn liên kết đôi trong phân tử etilen.
Trường hợp 3. Sự khác biệt về tính chất và đặc điểm cấu tạo phân tử
Thí nghiệm cho benzen vào nước brom: Về đặc điểm cấu tạo, có thể thấy, phân tử
benzen có 3 liên kết đôi xen kẽ 3 liên kết đơn nên có tính liên hợp tương tự như buta-1,3-
đien. Tuy nhiên, khi cho vào nước brom, benzen lại không có phản ứng cộng brom như
buta-1,3-đien. Điều này buộc HS phải suy nghĩ theo hướng tìm sự khác biệt về đặc điểm
cấu tạo phân tử giữa 2 chất này. Chính sự khác biệt về đặc điểm cấu tạo phân tử (benzen
mạch vòng, buta-1,3-đien mạch hở) là nguyên nhân của sự khác biệt về tính chất. Điều đó
cũng giúp giáo viên phân tích để HS dự đoán được tính chất hóa học của các chất phân tử
có chứa đồng thời vòng benzen và nhóm liên kết đôi, liên kết ba, thí dụ vinylbenzen
C6H5CH=CH2, phenylaxetilen C6H5C≡CH.
Thí nghiệm phân biệt glucozơ và fructozơ: Một vấn đề nảy sinh trong thực tế là phân
biệt glucozơ và fructozơ bằng thực nghiệm. Theo đặc điểm cấu tạo phân tử, glucozơ có
chức anđehit trong khi đó frutozơ có chức xeton, nên có thể dùng tính chất tráng bạc của
andehit để phân biệt với xeton. Tuy nhiên, khi thực hiện thí nghiệm thì cả 2 chất đều có
phản ứng tráng bạc. Đây là điều mâu thuẫn với kiến thức của học sinh và buộc họ phải suy
nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề. Đối với glucozơ thì không có gì khó hiểu, nhưng với
94 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI
fructozơ thì lại hoàn toàn khác. Kết quả thí nghiệm chứng tỏ phân tử fructozơ khi trong
dung dịch muối bạc / amoniac đã xuất hiện nhóm chức anđehit (gây nên phản ứng tráng
bạc). Điều này chỉ có thể lí giải khi có sự chuyển nhóm chức xeton thành nhóm chức
anđehit. Đối với học sinh, không đòi hỏi phải nêu được cơ chế của quá trình biến đổi này.
Thí nghiệm về tính bazơ của anilin: Khi nghiên cứu về anilin, học sinh có thể thấy
rằng anilin là amin bậc I do đó sẽ có tính bazơ tương tự amoniac, thí dụ dung dịch làm
xanh giấy quỳ tím, tác dụng với dung dịch một số muối sinh ra kết tủa hidroxit kim loại.
Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Vấn đề học sinh cần đặt ra là nguyên nhân gây nên
tính bazơ là gì (do mật độ electron trên nguyên tử N) và tại sao anilin lại có tính bazơ yếu
như vậy (không làm đổi màu quỳ tím thành xanh). So sánh với amoniac và các amin mạch
hở, anilin khác ở chỗ nguyên tử N của nhóm NH2 liên kết với vòng benzen. Điều này
chứng tỏ vòng benzen đã làm giảm mật độ electron trên nguyên tử N.
3. KẾT LUẬN
Qua các kết quả thu được trong quá trình thực nghiệm sư phạm bằng những bài kiểm
tra đánh giá kiến thức và bảng kiểm quan sát đánh giá NLVDKT của HS, bước đầu có thể
khẳng định việc tăng cường sử dụng thí nghiệm Hóa học theo hướng nghiên cứu thực sự có
tác dụng rất tốt đến việc hình thành và phát triển cho HS THPT NLVDKT để giải quyết
vấn đề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2005), Phát triển năng lực thông qua phương pháp và
phương tiện dạy học mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển giáo dục THPT, Tài liệu
Hội thảo tập huấn.
2. Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Đình Xuân (2013), “Rèn luyện và phát triển năng lực vận dụng
kiến thức cho học sinh trung học phổ thông qua hệ thống bài tập hóa học hữu cơ có nội dung
thực tiễn”, Tạp chí Giáo dục, số 7/2003.
3. Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Đình Xuân (2016), “Sử dụng một số dạng bài tập Hóa học Hữu cơ
để phát triển năng lực vận dụng kiến thức cho học sinh Trung học phổ thông”, Tạp chí Khoa
học, Đại học Sư phạm Hà Nội, số tháng 7/2016.
4. Nguyễn Cương (2007), Phương pháp dạy học hóa học ở trường phổ thông và Đại học. Một số
vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục Việt Nam.
5. Đào Việt Hùng, Đặng Thị Oanh, “Vận dụng dạy học dự án phần Hóa học Phân tích cho sinh
Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Thái Nguyên) (2016), “Góp phần phát triển năng lực vận
dụng kiến thức”. Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, số tháng 7/2016.
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 95
DEVELOPING PUPILS’ APPLICATION CAPACITY AT HIGH
SCHOOLS TO SOLVE PRATICAL PROBLEMS THROUGH
CHEMICAL EXPERIMENT
Abstract: Today, teaching towards developing the capacity of learners has become an
inevitable trend in education. One of the critical capacities of the formation and
development of high schools’ pupils is the ability to apply their knowledge to solve
practical problems. Using chemical exercises with practical content in teaching
chemistry is an effective measure to develop pupils’ capacity at high school. Using and
exploiting effectively of chemical experiments towards research are also effective
methods which support high schools’ pupils to apply their knowledge to solve problems.
The paper presents the use of some experiments that requires students’ thinking ability,
flexible and creative application contributing significantly to the pupils’ capacity
improvement.
Keywords: capacity; capacity application; chemical experiment; high schools’ pupils.