Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và
đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của
con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển
“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó
với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều
quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn
đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và
kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân
hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện
nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các
chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào
tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và
các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành
chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức
và trình độ của nhân viên về hoạt động này
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018
Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- trách
nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Nguyễn Thị Đoan Trang
Ngày nhận: 09/10/2017 Ngày nhận bản sửa: 24/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và
đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của
con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển
“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó
với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều
quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn
đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và
kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân
hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện
nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các
chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào
tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và
các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành
chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức
và trình độ của nhân viên về hoạt động này
Từ khóa: Bảo vệ môi trường; ngân hàng xanh; tín dụng xanh
1. Giới thiệu
iến đổi khí hậu,
cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, môi
trường ô nhiễm
đang ảnh hưởng
tới sự ổn định môi trường
sống của con người và là vấn
đề khiến hầu hết các quốc gia
trên thế giới quan tâm. Tại
Việt Nam, từ tháng 9/2012,
Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt “Chiến lược quốc gia về
tăng trưởng xanh thời kì 2011-
2020 và tầm nhìn đến 2050”,
nhằm góp phần ứng phó với
biến đổi khí hậu, giảm nghèo
và đảm bảo phát triển kinh tế
bền vững, và hệ thống ngân
hàng là một mắt xích trong
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
việc thực hiện chiến lược quốc
gia này thông qua việc thực
hiện “ngân hàng xanh”. Tuy
nhiên hiện nay “ngân hàng
xanh” ở Việt Nam còn khá
mới mẻ. Vì vậy việc nghiên
cứu để đưa ra các giải pháp
nhằm phát triển hoạt động
ngân hàng xanh, góp phần vào
sự phát triển bền vững của hệ
thống ngân hàng cũng như của
nền kinh tế Việt Nam là rất
cần thiết.
2. Cơ sở lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Khái niệm ngân hàng
xanh
Ngân hàng xanh đề cập đến
hoạt động thúc đẩy môi
trường thân thiện và giảm
lượng khí thải cac-bon từ hoạt
động ngân hàng (Bihari và
Bhavna 2015, 2). Đây là một
hình thức ngân hàng đảm bảo
ít sử dụng các nguồn lực tự
nhiên và giảm tối ưu về lãng
phí giấy và khí thải cac-bon.
Biswas định nghĩa ngân hàng
xanh là sự kết hợp và thúc đẩy
các hoạt động môi trường thân
thiện và giảm lượng khí thải
cac-bon (carboon footprint1-
hay còn được gọi là dấu chân
cac-bon) từ hoạt động ngân
hàng (Biswas 2016, 43). Ngân
hàng xanh đề cập đến các hoạt
động kinh doanh ngân hàng
tiến hành trong các lĩnh vực
và theo cách thức giúp giảm
1 Theo https://en.wikipedia.org/
wiki/Carbon_footprint, Dấu chân
carbon được nghĩa là toàn bộ
nhóm phát thải khí nhà kính gây ra
bởi một cá nhân, sự kiện, tổ chức,
hoặc sản phẩm được mô tả qua
lượng CO2 tương đương .
khí thải cac-bon bên ngoài và
giảm khí thải cac-bon trong
hoạt động nội bộ ngân hàng.
Theo bà Vũ Xuân Nguyệt
Hồng- đại diện Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM), “ngân hàng
xanh là các hoạt động, nghiệp
vụ của hệ thống ngân hàng
nhằm khuyến khích các hoạt
động vì môi trường và giảm
phát thải cac-bon” (Đỗ Lê
2013).
Như vậy, khái niệm về ngân
hàng xanh đều hướng đến các
vấn đề chính: (i) Giảm phát
thải cac-bon trong hoạt động
nội bộ ngân hàng; (ii) phát
triển các sản phẩm, dịch vụ
xanh và (iii) thúc đẩy hoạt
động vì môi trường thông qua
chính sách tín dụng xanh...
Cụ thể, các ngân hàng giảm
thải cac-bon thông qua việc
giảm thiểu tác động của
những hoạt động trong ngân
hàng ảnh hưởng đến môi
trường như việc sử dụng
điện, nước, giấy, vật dụng
văn phòng Do đó các ngân
hàng hướng tới giảm số lượng
các chi nhánh, văn phòng,
xây dựng các cơ sở hạ tầng
“xanh”, sử dụng những trang
thiết bị ít gây ảnh hưởng đến
môi trường, sử dụng tiết kiệm
các nguồn năng lượng,
Đồng thời, họ cũng phát triển
các sản phẩm, dịch vụ xanh
là phát triển các sản phẩm
dịch vụ có thể giảm lượng
các-bon, như các dịch vụ
ngân hàng điện tử (phone
banking, internet banking,
mobile banking), dịch vụ
thanh toán tự động, thanh
toán không dùng tiền mặt,
chủ yếu là thanh toán qua thẻ.
Bên cạnh đó, các ngân hàng
cũng khuyến khích khách
hàng quan tâm môi trường
bằng việc áp dụng chính sách
tín dụng xanh- chính sách có
những ưu đãi đối với các dự
án thân thiện môi trường, dự
án bảo vệ môi trường, thực
hiện thẩm định rủi ro môi
trường- xã hội trong hoạt
động cấp tín dụng
2.1.2. Các nghiên cứu về ngân
hàng xanh
Nghiên cứu của Biswas
(Biswas 2011) làm nổi bật
những lợi ích chính, những
thách thức, các khía cạnh
chiến lược của ngân hàng
xanh. Nghiên cứu cũng trình
bày tình trạng của các ngân
hàng Ấn Độ và khuyến nghị
các ngân hàng phải đóng vai
trò chủ động đưa ra vấn đề
môi trường và sinh thái như là
một phần của nguyên tắc cho
vay của họ, nhờ đó sẽ buộc
các ngành công nghiệp đầu
tư cho quản lý môi trường, sử
dụng công nghệ và hệ thống
quản lý phù hợp để thúc đẩy
ngân hàng xanh vì sự phát
triển bền vững của quốc gia.
Rahman và các cộng sự
(Rahman et al 2013) nghiên
cứu về ngân hàng xanh ở
Bangladesh cho thấy các ngân
hàng có thể trở nên “xanh”
thông qua thực hiện những
thay đổi trong 6 lĩnh vực
chính trong hoạt động ngân
hàng, đó là: quản lý đầu tư,
quản lý tiền gửi, văn phòng
xanh, quy trình tuyển dụng
và phát triển nguồn nhân lực,
trách nhiệm xã hội, và nhận
thức của khách hàng.
Sudhalakshmi và Chinnadorai
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
(2014) đã thấy rằng mặc dù
các ngân hàng ở Ấn Độ đóng
vai trò chủ động trong nền
kinh tế mới nổi của Ấn Độ
nhưng vẫn chưa có sự dẫn đầu
trong vấn đề ngân hàng xanh.
Nhóm tác giả cũng đưa ra các
định hướng để các ngân hàng
trở nên “xanh” như dựa vào
các giao dịch online để giảm
sử dụng giấy càng nhiều càng
tốt, áp dụng các tiêu chuẩn về
môi trường trong cho vay, coi
vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên là nguyên tắc coi trọng
trong đánh giá khoản cho
vay và có sự hợp tác của các
khách hàng trong việc giảm
cac-bon, chủ động theo đuổi
các chương trình xanh vì sự
phát triển bền vững.
Nghiên cứu của Raad Mozib
Lalon (2015) tập trung vào
các hoạt động ngân hàng
xanh của các ngân hàng ở
Bangladesh và so sánh những
hoạt động của ngân hàng xanh
của các NHTM. Đồng thời
nghiên cứu này cũng thảo luận
về các quy định liên quan đến
ngân hàng xanh ở đất nước
này. Từ đó, tác giả đưa ra các
khuyến nghị như ngân hàng
Bangladesh phải theo dõi các
hoạt động ngân hàng xanh của
các ngân hàng; Chính phủ nên
khuyến khích và cố gắng để
tạo ra nhận thức về ngân hàng
xanh, có sự phối hợp của các
đơn vị có liên quan để chia sẻ
kiến thức và bí quyết kỹ thuật,
cũng như có cơ sở dữ liệu để
hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn
thực hành ngân hàng xanh một
cách có hiệu quả.
Gần đây nhất, Biswas (2016)
đã tìm hiểu tầm quan trọng
của ngân hàng xanh, xem xét
kinh nghiệm quốc tế và rút ra
những bài học quan trọng để
phát triển bền vững ở Ấn Độ.
Ở Việt Nam, đã có nghiên
cứu của Nguyễn Hữu Huân
(2014) về xây dựng ngân
hàng xanh ở Việt Nam, chỉ ra
sự quan trọng của nghiệp vụ
ngân hàng xanh, tham khảo
những kinh nghiệm quốc tế và
những bài học cho hoạt động
của ngân hàng Việt Nam và
sự phát triển bền vững ở Việt
Nam.
Nghiên cứu của Vũ Thị Kim
Oanh (2015) cũng phân tích
kinh nghiệm của một số quốc
gia trên thế giới trong việc
xây dựng và phát triển ngân
hàng xanh, trên cơ sở đó đưa
ra những khuyến nghị để phát
triển ngân hàng xanh ở Việt
Nam như hệ thống ngân hàng
phải có những hành động thiết
thực triển khai ngân hàng
xanh và tín dụng xanh nhằm
hướng tới phát triển bền vững,
nếu không hệ thống ngân hàng
và nền kinh tế sẽ trả những cái
giá rất đắt.
2.2. Phương pháp nghiên
cứu
Nghiên cứu này áp dụng
phương pháp phân tích nội
dung và số liệu liên quan ngân
hàng xanh từ các báo cáo
thường niên năm 2016 của các
ngân hàng được công bố trên
các trang thông tin điện tử của
ngân hàng. Đồng thời, nghiên
cứu này cũng phân tích các
thông tin liên quan hoạt động
ngân hàng xanh từ các tạp chí
chuyên ngành và trang thông
tin điện tử của các tạp chí để
tìm hiểu về kinh nghiệm của
một số quốc gia khi triển khai
chính sách về ngân hàng xanh
và để có những thông tin cập
nhật về thực trạng hoạt động
ngân hàng xanh ở Việt Nam.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả
3.1.1. Kinh nghiệm của một số
quốc gia trên thế giới
Trên thế giới đã có khá nhiều
quốc gia triển khai chính sách
về ngân hàng xanh.
Trung Quốc đẩy mạnh hoạt
động ngân hàng xanh thông
qua chính sách “Tín dụng
Xanh”. Chính sách này của
Trung Quốc được ban hành
vào tháng 07/2007 nhằm
khuyến khích các ngân hàng
Trung Quốc thực hiện cấp
tín dụng cho các dự án ít gây
ô nhiễm, thân thiện với môi
trường hay sử dụng năng
lượng tái tạo. Chính sách Tín
dụng xanh cũng đã đạt được
những kết quả ban đầu khá ấn
tượng với sự gia tăng đáng kể
nguồn vốn vào các dự án xanh
tại Trung Quốc Tuy nhiên,
Trung Quốc đã mất gần 5 năm
kể từ khi bắt đầu ra chính sách
cho đến khi xây dựng được
một hướng dẫn tương đối chi
tiết để thực hiện chính sách
này (tháng 02/2012). Một
trong những khó khăn lớn
nhất của việc thực hiện chính
sách này là việc thiếu đi một
hệ thống đánh giá đáng tin cậy
về các ngành nghề và các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường để
làm căn cứ cho các ngân hàng
phân loại dự án, đặc biệt là
khi nhiều ngành gây ô nhiễm
cũng đang là những ngành
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
mang lại lợi nhuận cao cho
nhiều địa phương.
Ở Mỹ đã có quy định về trách
nhiệm đối với môi trường
không chỉ của doanh nghiệp
gây ô nhiễm mà còn của các
bên liên quan khác, trong
đó có thể bao gồm cả ngân
hàng cho vay vốn cho các
công trình, dự án gây ô nhiễm
khi thông qua Đạo luật Bồi
hoàn Môi trường Toàn diện
(CERCLA- Comprehensive
Environmental Response,
Compensation, and Liability
Act) năm 1980. Mặc dù Đạo
luật này có miễn trừ trách
nhiệm của người cho vay,
nhưng những trường hợp
người cho vay có tham gia
một mức nhất định đến việc
đảm bảo an toàn môi trường,
xã hội của công trình hay dự
án gây ô nhiễm thì cũng phải
nộp phạt một khoản phí không
nhỏ. Bên cạnh đó, những
quy định nghiêm ngặt của
CERCLA về bồi hoàn môi
trường cũng tác động gián tiếp
đến các ngân hàng vì nếu phải
bồi hoàn môi trường thì chủ
đầu tư dự án sẽ mất khả năng
trả nợ cho ngân hàng.
Tại châu Âu, năm 1989, Ủy
ban Châu Âu (EC) đưa ra một
bản dự thảo Chỉ thị về trách
nhiệm dân sự đối với những
tổn hại do rác thải. Tuy nhiên,
đến năm 2004, Chỉ thị này
mới được chính thức đưa ra
sau khi EC thu hẹp bớt những
quy định về người chịu trách
nhiệm với cơ sở gây ô nhiễm
do các ngân hàng châu Âu
lo ngại đây sẽ trở thành một
CERCLA thứ hai. Sau khi Chỉ
thị này có hiệu lực (từ tháng
4/2004), các nước thành viên
của EC có ba năm để xây
dựng luật tại quốc gia mình.
Tuy nhiên, đến tháng 07/2010
việc này mới được hoàn tất
nên đánh giá về hiệu quả thực
hiện còn hạn chế.
Bên cạnh việc luật hóa trách
nhiệm như các ví dụ ở trên,
có một số nỗ lực khác ngoài
nhà nước nhằm thúc đẩy trách
nhiệm của ngành ngân hàng
đối với môi trường và xã hội,
như: Sáng kiến tài chính của
chương trình môi trường Liên
Hiệp Quốc (UNEPFI), Cam
kết hiệp ước toàn cầu của Liên
Hiệp Quốc (UNGC), Nguyên
tắc đầu tư có trách nhiệm của
Liên Hiệp Quốc, Nguyên tắc
xích đạo (EP), Nguyên tắc
Các-bon, Nguyên tắc khí hậu,
ISO 26000 và một số sáng
kiến, dự án khác. Trong đó,
EP- thỏa thuận không cho
tài trợ trực tiếp các dự án mà
chủ đầu tư dự án không hoặc
không thể tuân thủ các chính
sách và quy trình về quản lý
rủi ro môi trường và xã hội, là
bộ chuẩn mực được chính các
tổ chức tài chính xây dựng và
cam kết thực hiện. EP được
chính thức ra đời năm 2003 và
đến nay đã có 78 tổ chức tài
chính tham gia cam kết. Hiện
nay, EP được xem như bộ
chuẩn mực tự nguyện mang
tính hướng dẫn tốt nhất đối
với các nhà đầu tư tài chính.
3.1.2. Thực trạng ngân hàng
xanh ở Việt Nam
Vấn đề giảm thải khí cac-
bon trong hoạt động nội bộ
ngân hàng: Hiện nay, quy
mô ngày càng tăng của các
ngân hàng làm tăng lượng khí
thải cac-bon ra môi trường
xung quanh. Chỉ tính đến
thời điểm tháng 10/2016, hệ
thống NHTM Việt Nam đã có
10.203 chi nhánh, phòng giao
dịch phủ khắp các tỉnh thành
trong nước2. Với số lượng các
chi nhánh khổng lồ như vậy,
khi hoạt động, các ngân hàng
sẽ làm tăng đáng kể lượng khí
thải cac-bon vào môi trường
do sử dụng nhiều năng lượng,
máy điều hòa, thiết bị in ấn...
Qua đó, tác động xấu đến
môi trường, làm ảnh hưởng
đến nguồn không khí và môi
trường tự nhiên xung quanh.
Về việc phát triển các sản
phẩm, dịch vụ xanh: Hiện nay,
các ngân hàng đều đang phát
triển các dịch vụ ngân hàng
điện tử- một trong những hoạt
động làm xanh hóa hoạt động
ngân hàng. Từ đó khuyến
khích người dân sử dụng các
phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt. Phó Giám đốc
NHNN Chi nhánh TP Hồ Chí
Minh Trần Ðình Cường cho
biết: “Theo thống kê, đã có
65 NHTM cung ứng dịch vụ
internet banking, 35 NHTM
cung ứng dịch vụ mobile
banking và nhiều tổ chức
trung gian cung ứng các dịch
vụ thanh toán điện tử. Nhờ sự
phát triển nhanh của dịch vụ
thanh toán điện tử, tỷ trọng
thanh toán bằng tiền mặt trên
tổng phương tiện thanh toán
giảm còn khoảng 12%, từ mức
hơn 14% của năm 2010” 3. Cụ
2 Số liệu từ
lienvietpostbank.com.vn/tin-tuc-
su -k ien / t i n - l i env ie tpos tbank /
n o i - d u n g / 3 1 - 1 0 - 2 0 1 6 -
lienvietpostbank-co-mang-luoi-
rong-nhat-viet-nam
3 https://www.baomoi.com/ngan-
hang-day-manh-phat-trien-dich-
vu-truc-tuyen/c/23438367.epi
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
thể, theo thống kê của NHNN,
từ đầu năm đến tháng 7/2017,
tỷ trọng tiền mặt lưu thông
trên tổng phương tiện thanh
toán có xu hướng giảm dần, từ
14,68% xuống còn 11,35%4.
Tuy nhiên, “người dân Việt
Nam vẫn có thói quen sử dụng
tiền mặt khi có đến 90% các
giao dịch bằng thẻ đơn thuần
chỉ là rút tiền tại máy ATM
và chỉ có 10% còn lại là dùng
để thanh toán qua POS (máy
chấp nhận thanh toán thẻ)”5.
Về việc phát triển tín dụng
xanh: Trước đây, các ngân
hàng chưa có chính sách tín
dụng xanh hay chính sách ưu
tiên cho các hoạt động liên
quan tới bảo vệ môi trường.
Nhưng với sự đẩy mạnh
tuyên truyền về các chính
sách bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững, cùng các
hoạt động tài trợ tăng cường
nhận thức và thúc đẩy triển
khai từ NHNN và các tổ chức
quốc tế như Ngân hàng Thế
giới (WB), ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB), Cục
Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ
(SECO) thì ngân hàng Việt
Nam đã bắt đầu quan tâm tới
tín dụng xanh, quan tâm tới
các dự án đầu tư mang lại lợi
ích cho môi trường. Các quy
định về chính sách tín dụng
xanh đã thấy ở VietinBank,
Techcombank, ABBANK,
Sacombank Xu hướng tín
dụng hướng tới phát triển
toàn diện và bền vững có thể
4 Số liệu thống kê trên https://
www.sbv.gov.vn
5
ngan-hang-d ia -oc /phat - t r ien-
thanh- toan-khong-dung- t ien -
mat-tai-viet-nam-van-con-nhieu-
cai-kho-316401.html.
còn mạnh hơn trong thời gian
tới với sự hỗ trợ mạnh mẽ về
chính sách của cơ quan quản
lý. Nhiều ngân hàng trong
nước đã và đang triển khai các
sản phẩm tín dụng xanh như
cho vay tiết kiệm năng lượng,
cho vay năng lượng tái tạo,
cho vay sản xuất sạch hơn
(Lê Hà, 2015). Tuy nhiên,
hiện các “dòng tín dụng xanh”
phần lớn vẫn dựa trên các dự
án có tài trợ quốc tế. Bởi ngân
hàng vẫn còn e ngại về rủi ro
tín dụng từ các dự án đầu tư
xanh (Thành Long, 2015).
3.2. Thảo luận
Với những kết quả trên cho
thấy việc phát triển ngân hàng
xanh ở các ngân hàng Việt
Nam còn nhiều thách thức.
Để giảm lượng cac-bon và
phát triển sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng xanh, khách hàng
cần có thói quen sử dụng
thanh toán không dùng tiền
mặt và giao dịch qua ngân
hàng điện tử. Tuy nhiên, yếu
tố văn hóa, thói quen tiêu
dùng và trình độ dân trí là một
rào cản đối với việc phát triển
các dịch vụ ngân hàng ứng
dụng công nghệ cao tại Việt
Nam. Khách hàng vẫn còn e
ngại về tính an toàn, ổn định
của các phương thức thanh
toán điện tử. Hơn nữa, việc
nghẽn mạng, mất kết nối vẫn
thường xuyên xảy ra gây ảnh
hưởng đến chất lượng đường
truyền, ảnh hưởng đến tính
liên tục và ổn định của các
dịch vụ. Bên cạnh đó, chênh
lệch về hạ tầng công nghệ
giữa thành thị và nông thôn
còn cao cũng gây khó khăn
cho ngân hàng trong việc tăng
khả năng thâm nhập của các
dịch vụ ngân hàng điện tử ở
các vùng sâu, vùng xa.
Về phát triển tín dụng xanh
chưa được các ngân hàng
quan tâm nhiều là do các ngân
hàng chưa nhận thức rõ tầm
quan trọng của tín dụng xanh
trong sự phát triển bền vững
của ngân hàng, cũng như do
chưa có những quy định pháp
lý chặt chẽ liên quan tới vấn
đề này. Đồng thời việc áp
dụng chính sách tín dụng xanh
sẽ làm tăng chi phí của ngân
hàng như chi phí cho việc
thẩm định rủi ro môi trường
xã hội, chi phí ưu đãi về lãi
suất cho các dự án thân thiện
môi trường, chi phí dự phòng
do việc tài trợ các dự án này
thường đòi hỏi số vốn cao hơn
mà thời gian thu hồi vốn chậm
hơn, tăng rủi ro tín dụng cho
ngân hàng
Đối với các quy định pháp lý
thì hiện nay, các chế tài về
xử lý ô nhiễm quy định trong
Luật Bảo vệ môi trường cũng
như trong Bộ luật Hình sự
(phần quy định về tội phạm
môi trường) cũng chỉ áp dụng
với các tổ chức, cá nhân trực
tiếp gây ô nhiễm, chưa có quy
định chế tài đối với đơn vị tài
trợ hay cho vay các dự án gây
ô nhiễm. Do không bị quy kết
về mặt trách nhiệm, nên cán
bộ tín dụng của các ngân hàng
cũng không quan tâm đánh
giá tác động môi trường trong
quá trình thẩm định cho vay.
Ngoài ra, việc các ngân hàng
không thực hiện đánh giá rủi
ro môi trường và xã hội còn
do họ chưa hiểu biết về vấn
đề này. Tại Hội thảo “Quản
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
lý rủi ro môi trường và xã
hội trong ngành Ngân hàng”
do NHNN tổ chức vào ngày
21-22/8/2012, Công ty Tư
vấn MCG trình bày kết quả
khảo sát của họ về hoạt động
quản lý rủi ro môi trường và
xã hội trong ngành Ngân hàng
ở Việt Nam thì 89% số ngân
hàng tham gia khảo sát không
biết đến bất kỳ tài liệu hướng
dẫn hay tiêu chí nào về quản
lý rủi ro môi trường và xã hội
trong ngành tài chính; 93%
các ngân hàng cũng cho rằng
cần phải có hướng dẫn về vấn
đề này (PanNature). Tuy vậy,
nguyên nhân chính của việc
các NHTM chưa phát triển tín
dụng xanh là do họ chưa nhận
thức sâu sắc được những rủi
ro mà một dự án gây ô nhiễ