Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và
đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của
con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển
“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó
với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều
quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn
đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và
kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân
hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện
nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các
chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào
tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và
các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành
chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức
và trình độ của nhân viên về hoạt động này
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 775 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018
Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- trách 
nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Nguyễn Thị Đoan Trang
Ngày nhận: 09/10/2017 Ngày nhận bản sửa: 24/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và 
đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và 
ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của 
con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới 
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển 
“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó 
với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều 
quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc 
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn 
đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và 
kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân 
hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện 
nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. 
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các 
chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào 
tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và 
các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành 
chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức 
và trình độ của nhân viên về hoạt động này
Từ khóa: Bảo vệ môi trường; ngân hàng xanh; tín dụng xanh
1. Giới thiệu
iến đổi khí hậu, 
cạn kiệt tài nguyên 
thiên nhiên, môi 
trường ô nhiễm 
đang ảnh hưởng 
tới sự ổn định môi trường 
sống của con người và là vấn 
đề khiến hầu hết các quốc gia 
trên thế giới quan tâm. Tại 
Việt Nam, từ tháng 9/2012, 
Thủ tướng Chính phủ đã phê 
duyệt “Chiến lược quốc gia về 
tăng trưởng xanh thời kì 2011- 
2020 và tầm nhìn đến 2050”, 
nhằm góp phần ứng phó với 
biến đổi khí hậu, giảm nghèo 
và đảm bảo phát triển kinh tế 
bền vững, và hệ thống ngân 
hàng là một mắt xích trong 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
việc thực hiện chiến lược quốc 
gia này thông qua việc thực 
hiện “ngân hàng xanh”. Tuy 
nhiên hiện nay “ngân hàng 
xanh” ở Việt Nam còn khá 
mới mẻ. Vì vậy việc nghiên 
cứu để đưa ra các giải pháp 
nhằm phát triển hoạt động 
ngân hàng xanh, góp phần vào 
sự phát triển bền vững của hệ 
thống ngân hàng cũng như của 
nền kinh tế Việt Nam là rất 
cần thiết. 
2. Cơ sở lý thuyết và 
phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Khái niệm ngân hàng 
xanh
Ngân hàng xanh đề cập đến 
hoạt động thúc đẩy môi 
trường thân thiện và giảm 
lượng khí thải cac-bon từ hoạt 
động ngân hàng (Bihari và 
Bhavna 2015, 2). Đây là một 
hình thức ngân hàng đảm bảo 
ít sử dụng các nguồn lực tự 
nhiên và giảm tối ưu về lãng 
phí giấy và khí thải cac-bon. 
Biswas định nghĩa ngân hàng 
xanh là sự kết hợp và thúc đẩy 
các hoạt động môi trường thân 
thiện và giảm lượng khí thải 
cac-bon (carboon footprint1- 
hay còn được gọi là dấu chân 
cac-bon) từ hoạt động ngân 
hàng (Biswas 2016, 43). Ngân 
hàng xanh đề cập đến các hoạt 
động kinh doanh ngân hàng 
tiến hành trong các lĩnh vực 
và theo cách thức giúp giảm 
1 Theo https://en.wikipedia.org/
wiki/Carbon_footprint, Dấu chân 
carbon được nghĩa là toàn bộ 
nhóm phát thải khí nhà kính gây ra 
bởi một cá nhân, sự kiện, tổ chức, 
hoặc sản phẩm được mô tả qua 
lượng CO2 tương đương . 
khí thải cac-bon bên ngoài và 
giảm khí thải cac-bon trong 
hoạt động nội bộ ngân hàng. 
Theo bà Vũ Xuân Nguyệt 
Hồng- đại diện Viện Nghiên 
cứu quản lý kinh tế Trung 
ương (CIEM), “ngân hàng 
xanh là các hoạt động, nghiệp 
vụ của hệ thống ngân hàng 
nhằm khuyến khích các hoạt 
động vì môi trường và giảm 
phát thải cac-bon” (Đỗ Lê 
2013).
Như vậy, khái niệm về ngân 
hàng xanh đều hướng đến các 
vấn đề chính: (i) Giảm phát 
thải cac-bon trong hoạt động 
nội bộ ngân hàng; (ii) phát 
triển các sản phẩm, dịch vụ 
xanh và (iii) thúc đẩy hoạt 
động vì môi trường thông qua 
chính sách tín dụng xanh... 
Cụ thể, các ngân hàng giảm 
thải cac-bon thông qua việc 
giảm thiểu tác động của 
những hoạt động trong ngân 
hàng ảnh hưởng đến môi 
trường như việc sử dụng 
điện, nước, giấy, vật dụng 
văn phòng Do đó các ngân 
hàng hướng tới giảm số lượng 
các chi nhánh, văn phòng, 
xây dựng các cơ sở hạ tầng 
“xanh”, sử dụng những trang 
thiết bị ít gây ảnh hưởng đến 
môi trường, sử dụng tiết kiệm 
các nguồn năng lượng, 
Đồng thời, họ cũng phát triển 
các sản phẩm, dịch vụ xanh 
là phát triển các sản phẩm 
dịch vụ có thể giảm lượng 
các-bon, như các dịch vụ 
ngân hàng điện tử (phone 
banking, internet banking, 
mobile banking), dịch vụ 
thanh toán tự động, thanh 
toán không dùng tiền mặt, 
chủ yếu là thanh toán qua thẻ. 
Bên cạnh đó, các ngân hàng 
cũng khuyến khích khách 
hàng quan tâm môi trường 
bằng việc áp dụng chính sách 
tín dụng xanh- chính sách có 
những ưu đãi đối với các dự 
án thân thiện môi trường, dự 
án bảo vệ môi trường, thực 
hiện thẩm định rủi ro môi 
trường- xã hội trong hoạt 
động cấp tín dụng
2.1.2. Các nghiên cứu về ngân 
hàng xanh
Nghiên cứu của Biswas 
(Biswas 2011) làm nổi bật 
những lợi ích chính, những 
thách thức, các khía cạnh 
chiến lược của ngân hàng 
xanh. Nghiên cứu cũng trình 
bày tình trạng của các ngân 
hàng Ấn Độ và khuyến nghị 
các ngân hàng phải đóng vai 
trò chủ động đưa ra vấn đề 
môi trường và sinh thái như là 
một phần của nguyên tắc cho 
vay của họ, nhờ đó sẽ buộc 
các ngành công nghiệp đầu 
tư cho quản lý môi trường, sử 
dụng công nghệ và hệ thống 
quản lý phù hợp để thúc đẩy 
ngân hàng xanh vì sự phát 
triển bền vững của quốc gia.
Rahman và các cộng sự 
(Rahman et al 2013) nghiên 
cứu về ngân hàng xanh ở 
Bangladesh cho thấy các ngân 
hàng có thể trở nên “xanh” 
thông qua thực hiện những 
thay đổi trong 6 lĩnh vực 
chính trong hoạt động ngân 
hàng, đó là: quản lý đầu tư, 
quản lý tiền gửi, văn phòng 
xanh, quy trình tuyển dụng 
và phát triển nguồn nhân lực, 
trách nhiệm xã hội, và nhận 
thức của khách hàng.
Sudhalakshmi và Chinnadorai 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
(2014) đã thấy rằng mặc dù 
các ngân hàng ở Ấn Độ đóng 
vai trò chủ động trong nền 
kinh tế mới nổi của Ấn Độ 
nhưng vẫn chưa có sự dẫn đầu 
trong vấn đề ngân hàng xanh. 
Nhóm tác giả cũng đưa ra các 
định hướng để các ngân hàng 
trở nên “xanh” như dựa vào 
các giao dịch online để giảm 
sử dụng giấy càng nhiều càng 
tốt, áp dụng các tiêu chuẩn về 
môi trường trong cho vay, coi 
vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên 
nhiên là nguyên tắc coi trọng 
trong đánh giá khoản cho 
vay và có sự hợp tác của các 
khách hàng trong việc giảm 
cac-bon, chủ động theo đuổi 
các chương trình xanh vì sự 
phát triển bền vững. 
Nghiên cứu của Raad Mozib 
Lalon (2015) tập trung vào 
các hoạt động ngân hàng 
xanh của các ngân hàng ở 
Bangladesh và so sánh những 
hoạt động của ngân hàng xanh 
của các NHTM. Đồng thời 
nghiên cứu này cũng thảo luận 
về các quy định liên quan đến 
ngân hàng xanh ở đất nước 
này. Từ đó, tác giả đưa ra các 
khuyến nghị như ngân hàng 
Bangladesh phải theo dõi các 
hoạt động ngân hàng xanh của 
các ngân hàng; Chính phủ nên 
khuyến khích và cố gắng để 
tạo ra nhận thức về ngân hàng 
xanh, có sự phối hợp của các 
đơn vị có liên quan để chia sẻ 
kiến thức và bí quyết kỹ thuật, 
cũng như có cơ sở dữ liệu để 
hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn 
thực hành ngân hàng xanh một 
cách có hiệu quả.
Gần đây nhất, Biswas (2016) 
đã tìm hiểu tầm quan trọng 
của ngân hàng xanh, xem xét 
kinh nghiệm quốc tế và rút ra 
những bài học quan trọng để 
phát triển bền vững ở Ấn Độ. 
Ở Việt Nam, đã có nghiên 
cứu của Nguyễn Hữu Huân 
(2014) về xây dựng ngân 
hàng xanh ở Việt Nam, chỉ ra 
sự quan trọng của nghiệp vụ 
ngân hàng xanh, tham khảo 
những kinh nghiệm quốc tế và 
những bài học cho hoạt động 
của ngân hàng Việt Nam và 
sự phát triển bền vững ở Việt 
Nam. 
Nghiên cứu của Vũ Thị Kim 
Oanh (2015) cũng phân tích 
kinh nghiệm của một số quốc 
gia trên thế giới trong việc 
xây dựng và phát triển ngân 
hàng xanh, trên cơ sở đó đưa 
ra những khuyến nghị để phát 
triển ngân hàng xanh ở Việt 
Nam như hệ thống ngân hàng 
phải có những hành động thiết 
thực triển khai ngân hàng 
xanh và tín dụng xanh nhằm 
hướng tới phát triển bền vững, 
nếu không hệ thống ngân hàng 
và nền kinh tế sẽ trả những cái 
giá rất đắt.
2.2. Phương pháp nghiên 
cứu
Nghiên cứu này áp dụng 
phương pháp phân tích nội 
dung và số liệu liên quan ngân 
hàng xanh từ các báo cáo 
thường niên năm 2016 của các 
ngân hàng được công bố trên 
các trang thông tin điện tử của 
ngân hàng. Đồng thời, nghiên 
cứu này cũng phân tích các 
thông tin liên quan hoạt động 
ngân hàng xanh từ các tạp chí 
chuyên ngành và trang thông 
tin điện tử của các tạp chí để 
tìm hiểu về kinh nghiệm của 
một số quốc gia khi triển khai 
chính sách về ngân hàng xanh 
và để có những thông tin cập 
nhật về thực trạng hoạt động 
ngân hàng xanh ở Việt Nam.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả
3.1.1. Kinh nghiệm của một số 
quốc gia trên thế giới
Trên thế giới đã có khá nhiều 
quốc gia triển khai chính sách 
về ngân hàng xanh. 
Trung Quốc đẩy mạnh hoạt 
động ngân hàng xanh thông 
qua chính sách “Tín dụng 
Xanh”. Chính sách này của 
Trung Quốc được ban hành 
vào tháng 07/2007 nhằm 
khuyến khích các ngân hàng 
Trung Quốc thực hiện cấp 
tín dụng cho các dự án ít gây 
ô nhiễm, thân thiện với môi 
trường hay sử dụng năng 
lượng tái tạo. Chính sách Tín 
dụng xanh cũng đã đạt được 
những kết quả ban đầu khá ấn 
tượng với sự gia tăng đáng kể 
nguồn vốn vào các dự án xanh 
tại Trung Quốc Tuy nhiên, 
Trung Quốc đã mất gần 5 năm 
kể từ khi bắt đầu ra chính sách 
cho đến khi xây dựng được 
một hướng dẫn tương đối chi 
tiết để thực hiện chính sách 
này (tháng 02/2012). Một 
trong những khó khăn lớn 
nhất của việc thực hiện chính 
sách này là việc thiếu đi một 
hệ thống đánh giá đáng tin cậy 
về các ngành nghề và các cơ 
sở gây ô nhiễm môi trường để 
làm căn cứ cho các ngân hàng 
phân loại dự án, đặc biệt là 
khi nhiều ngành gây ô nhiễm 
cũng đang là những ngành 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
mang lại lợi nhuận cao cho 
nhiều địa phương. 
Ở Mỹ đã có quy định về trách 
nhiệm đối với môi trường 
không chỉ của doanh nghiệp 
gây ô nhiễm mà còn của các 
bên liên quan khác, trong 
đó có thể bao gồm cả ngân 
hàng cho vay vốn cho các 
công trình, dự án gây ô nhiễm 
khi thông qua Đạo luật Bồi 
hoàn Môi trường Toàn diện 
(CERCLA- Comprehensive 
Environmental Response, 
Compensation, and Liability 
Act) năm 1980. Mặc dù Đạo 
luật này có miễn trừ trách 
nhiệm của người cho vay, 
nhưng những trường hợp 
người cho vay có tham gia 
một mức nhất định đến việc 
đảm bảo an toàn môi trường, 
xã hội của công trình hay dự 
án gây ô nhiễm thì cũng phải 
nộp phạt một khoản phí không 
nhỏ. Bên cạnh đó, những 
quy định nghiêm ngặt của 
CERCLA về bồi hoàn môi 
trường cũng tác động gián tiếp 
đến các ngân hàng vì nếu phải 
bồi hoàn môi trường thì chủ 
đầu tư dự án sẽ mất khả năng 
trả nợ cho ngân hàng. 
Tại châu Âu, năm 1989, Ủy 
ban Châu Âu (EC) đưa ra một 
bản dự thảo Chỉ thị về trách 
nhiệm dân sự đối với những 
tổn hại do rác thải. Tuy nhiên, 
đến năm 2004, Chỉ thị này 
mới được chính thức đưa ra 
sau khi EC thu hẹp bớt những 
quy định về người chịu trách 
nhiệm với cơ sở gây ô nhiễm 
do các ngân hàng châu Âu 
lo ngại đây sẽ trở thành một 
CERCLA thứ hai. Sau khi Chỉ 
thị này có hiệu lực (từ tháng 
4/2004), các nước thành viên 
của EC có ba năm để xây 
dựng luật tại quốc gia mình. 
Tuy nhiên, đến tháng 07/2010 
việc này mới được hoàn tất 
nên đánh giá về hiệu quả thực 
hiện còn hạn chế. 
Bên cạnh việc luật hóa trách 
nhiệm như các ví dụ ở trên, 
có một số nỗ lực khác ngoài 
nhà nước nhằm thúc đẩy trách 
nhiệm của ngành ngân hàng 
đối với môi trường và xã hội, 
như: Sáng kiến tài chính của 
chương trình môi trường Liên 
Hiệp Quốc (UNEPFI), Cam 
kết hiệp ước toàn cầu của Liên 
Hiệp Quốc (UNGC), Nguyên 
tắc đầu tư có trách nhiệm của 
Liên Hiệp Quốc, Nguyên tắc 
xích đạo (EP), Nguyên tắc 
Các-bon, Nguyên tắc khí hậu, 
ISO 26000 và một số sáng 
kiến, dự án khác. Trong đó, 
EP- thỏa thuận không cho 
tài trợ trực tiếp các dự án mà 
chủ đầu tư dự án không hoặc 
không thể tuân thủ các chính 
sách và quy trình về quản lý 
rủi ro môi trường và xã hội, là 
bộ chuẩn mực được chính các 
tổ chức tài chính xây dựng và 
cam kết thực hiện. EP được 
chính thức ra đời năm 2003 và 
đến nay đã có 78 tổ chức tài 
chính tham gia cam kết. Hiện 
nay, EP được xem như bộ 
chuẩn mực tự nguyện mang 
tính hướng dẫn tốt nhất đối 
với các nhà đầu tư tài chính.
3.1.2. Thực trạng ngân hàng 
xanh ở Việt Nam
Vấn đề giảm thải khí cac-
bon trong hoạt động nội bộ 
ngân hàng: Hiện nay, quy 
mô ngày càng tăng của các 
ngân hàng làm tăng lượng khí 
thải cac-bon ra môi trường 
xung quanh. Chỉ tính đến 
thời điểm tháng 10/2016, hệ 
thống NHTM Việt Nam đã có 
10.203 chi nhánh, phòng giao 
dịch phủ khắp các tỉnh thành 
trong nước2. Với số lượng các 
chi nhánh khổng lồ như vậy, 
khi hoạt động, các ngân hàng 
sẽ làm tăng đáng kể lượng khí 
thải cac-bon vào môi trường 
do sử dụng nhiều năng lượng, 
máy điều hòa, thiết bị in ấn... 
Qua đó, tác động xấu đến 
môi trường, làm ảnh hưởng 
đến nguồn không khí và môi 
trường tự nhiên xung quanh.
Về việc phát triển các sản 
phẩm, dịch vụ xanh: Hiện nay, 
các ngân hàng đều đang phát 
triển các dịch vụ ngân hàng 
điện tử- một trong những hoạt 
động làm xanh hóa hoạt động 
ngân hàng. Từ đó khuyến 
khích người dân sử dụng các 
phương tiện thanh toán không 
dùng tiền mặt. Phó Giám đốc 
NHNN Chi nhánh TP Hồ Chí 
Minh Trần Ðình Cường cho 
biết: “Theo thống kê, đã có 
65 NHTM cung ứng dịch vụ 
internet banking, 35 NHTM 
cung ứng dịch vụ mobile 
banking và nhiều tổ chức 
trung gian cung ứng các dịch 
vụ thanh toán điện tử. Nhờ sự 
phát triển nhanh của dịch vụ 
thanh toán điện tử, tỷ trọng 
thanh toán bằng tiền mặt trên 
tổng phương tiện thanh toán 
giảm còn khoảng 12%, từ mức 
hơn 14% của năm 2010” 3. Cụ 
2 Số liệu từ 
lienvietpostbank.com.vn/tin-tuc-
su -k ien / t i n - l i env ie tpos tbank /
n o i - d u n g / 3 1 - 1 0 - 2 0 1 6 -
lienvietpostbank-co-mang-luoi-
rong-nhat-viet-nam
3 https://www.baomoi.com/ngan-
hang-day-manh-phat-trien-dich-
vu-truc-tuyen/c/23438367.epi 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
thể, theo thống kê của NHNN, 
từ đầu năm đến tháng 7/2017, 
tỷ trọng tiền mặt lưu thông 
trên tổng phương tiện thanh 
toán có xu hướng giảm dần, từ 
14,68% xuống còn 11,35%4. 
Tuy nhiên, “người dân Việt 
Nam vẫn có thói quen sử dụng 
tiền mặt khi có đến 90% các 
giao dịch bằng thẻ đơn thuần 
chỉ là rút tiền tại máy ATM 
và chỉ có 10% còn lại là dùng 
để thanh toán qua POS (máy 
chấp nhận thanh toán thẻ)”5. 
Về việc phát triển tín dụng 
xanh: Trước đây, các ngân 
hàng chưa có chính sách tín 
dụng xanh hay chính sách ưu 
tiên cho các hoạt động liên 
quan tới bảo vệ môi trường. 
Nhưng với sự đẩy mạnh 
tuyên truyền về các chính 
sách bảo vệ môi trường và 
phát triển bền vững, cùng các 
hoạt động tài trợ tăng cường 
nhận thức và thúc đẩy triển 
khai từ NHNN và các tổ chức 
quốc tế như Ngân hàng Thế 
giới (WB), ngân hàng Phát 
triển châu Á (ADB), Cục 
Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ 
(SECO) thì ngân hàng Việt 
Nam đã bắt đầu quan tâm tới 
tín dụng xanh, quan tâm tới 
các dự án đầu tư mang lại lợi 
ích cho môi trường. Các quy 
định về chính sách tín dụng 
xanh đã thấy ở VietinBank, 
Techcombank, ABBANK, 
Sacombank Xu hướng tín 
dụng hướng tới phát triển 
toàn diện và bền vững có thể 
4 Số liệu thống kê trên https://
www.sbv.gov.vn 
5 
ngan-hang-d ia -oc /phat - t r ien-
thanh- toan-khong-dung- t ien -
mat-tai-viet-nam-van-con-nhieu-
cai-kho-316401.html. 
còn mạnh hơn trong thời gian 
tới với sự hỗ trợ mạnh mẽ về 
chính sách của cơ quan quản 
lý. Nhiều ngân hàng trong 
nước đã và đang triển khai các 
sản phẩm tín dụng xanh như 
cho vay tiết kiệm năng lượng, 
cho vay năng lượng tái tạo, 
cho vay sản xuất sạch hơn 
(Lê Hà, 2015). Tuy nhiên, 
hiện các “dòng tín dụng xanh” 
phần lớn vẫn dựa trên các dự 
án có tài trợ quốc tế. Bởi ngân 
hàng vẫn còn e ngại về rủi ro 
tín dụng từ các dự án đầu tư 
xanh (Thành Long, 2015). 
3.2. Thảo luận
Với những kết quả trên cho 
thấy việc phát triển ngân hàng 
xanh ở các ngân hàng Việt 
Nam còn nhiều thách thức. 
Để giảm lượng cac-bon và 
phát triển sản phẩm, dịch vụ 
ngân hàng xanh, khách hàng 
cần có thói quen sử dụng 
thanh toán không dùng tiền 
mặt và giao dịch qua ngân 
hàng điện tử. Tuy nhiên, yếu 
tố văn hóa, thói quen tiêu 
dùng và trình độ dân trí là một 
rào cản đối với việc phát triển 
các dịch vụ ngân hàng ứng 
dụng công nghệ cao tại Việt 
Nam. Khách hàng vẫn còn e 
ngại về tính an toàn, ổn định 
của các phương thức thanh 
toán điện tử. Hơn nữa, việc 
nghẽn mạng, mất kết nối vẫn 
thường xuyên xảy ra gây ảnh 
hưởng đến chất lượng đường 
truyền, ảnh hưởng đến tính 
liên tục và ổn định của các 
dịch vụ. Bên cạnh đó, chênh 
lệch về hạ tầng công nghệ 
giữa thành thị và nông thôn 
còn cao cũng gây khó khăn 
cho ngân hàng trong việc tăng 
khả năng thâm nhập của các 
dịch vụ ngân hàng điện tử ở 
các vùng sâu, vùng xa.
Về phát triển tín dụng xanh 
chưa được các ngân hàng 
quan tâm nhiều là do các ngân 
hàng chưa nhận thức rõ tầm 
quan trọng của tín dụng xanh 
trong sự phát triển bền vững 
của ngân hàng, cũng như do 
chưa có những quy định pháp 
lý chặt chẽ liên quan tới vấn 
đề này. Đồng thời việc áp 
dụng chính sách tín dụng xanh 
sẽ làm tăng chi phí của ngân 
hàng như chi phí cho việc 
thẩm định rủi ro môi trường 
xã hội, chi phí ưu đãi về lãi 
suất cho các dự án thân thiện 
môi trường, chi phí dự phòng 
do việc tài trợ các dự án này 
thường đòi hỏi số vốn cao hơn 
mà thời gian thu hồi vốn chậm 
hơn, tăng rủi ro tín dụng cho 
ngân hàng
Đối với các quy định pháp lý 
thì hiện nay, các chế tài về 
xử lý ô nhiễm quy định trong 
Luật Bảo vệ môi trường cũng 
như trong Bộ luật Hình sự 
(phần quy định về tội phạm 
môi trường) cũng chỉ áp dụng 
với các tổ chức, cá nhân trực 
tiếp gây ô nhiễm, chưa có quy 
định chế tài đối với đơn vị tài 
trợ hay cho vay các dự án gây 
ô nhiễm. Do không bị quy kết 
về mặt trách nhiệm, nên cán 
bộ tín dụng của các ngân hàng 
cũng không quan tâm đánh 
giá tác động môi trường trong 
quá trình thẩm định cho vay. 
Ngoài ra, việc các ngân hàng 
không thực hiện đánh giá rủi 
ro môi trường và xã hội còn 
do họ chưa hiểu biết về vấn 
đề này. Tại Hội thảo “Quản 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
lý rủi ro môi trường và xã 
hội trong ngành Ngân hàng” 
do NHNN tổ chức vào ngày 
21-22/8/2012, Công ty Tư 
vấn MCG trình bày kết quả 
khảo sát của họ về hoạt động 
quản lý rủi ro môi trường và 
xã hội trong ngành Ngân hàng 
ở Việt Nam thì 89% số ngân 
hàng tham gia khảo sát không 
biết đến bất kỳ tài liệu hướng 
dẫn hay tiêu chí nào về quản 
lý rủi ro môi trường và xã hội 
trong ngành tài chính; 93% 
các ngân hàng cũng cho rằng 
cần phải có hướng dẫn về vấn 
đề này (PanNature). Tuy vậy, 
nguyên nhân chính của việc 
các NHTM chưa phát triển tín 
dụng xanh là do họ chưa nhận 
thức sâu sắc được những rủi 
ro mà một dự án gây ô nhiễ