Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường

Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển “ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức và trình độ của nhân viên về hoạt động này

pdf9 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Nguyễn Thị Đoan Trang Ngày nhận: 09/10/2017 Ngày nhận bản sửa: 24/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018 Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển “ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức và trình độ của nhân viên về hoạt động này Từ khóa: Bảo vệ môi trường; ngân hàng xanh; tín dụng xanh 1. Giới thiệu iến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, môi trường ô nhiễm đang ảnh hưởng tới sự ổn định môi trường sống của con người và là vấn đề khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm. Tại Việt Nam, từ tháng 9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kì 2011- 2020 và tầm nhìn đến 2050”, nhằm góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, và hệ thống ngân hàng là một mắt xích trong CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 việc thực hiện chiến lược quốc gia này thông qua việc thực hiện “ngân hàng xanh”. Tuy nhiên hiện nay “ngân hàng xanh” ở Việt Nam còn khá mới mẻ. Vì vậy việc nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động ngân hàng xanh, góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng cũng như của nền kinh tế Việt Nam là rất cần thiết. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Khái niệm ngân hàng xanh Ngân hàng xanh đề cập đến hoạt động thúc đẩy môi trường thân thiện và giảm lượng khí thải cac-bon từ hoạt động ngân hàng (Bihari và Bhavna 2015, 2). Đây là một hình thức ngân hàng đảm bảo ít sử dụng các nguồn lực tự nhiên và giảm tối ưu về lãng phí giấy và khí thải cac-bon. Biswas định nghĩa ngân hàng xanh là sự kết hợp và thúc đẩy các hoạt động môi trường thân thiện và giảm lượng khí thải cac-bon (carboon footprint1- hay còn được gọi là dấu chân cac-bon) từ hoạt động ngân hàng (Biswas 2016, 43). Ngân hàng xanh đề cập đến các hoạt động kinh doanh ngân hàng tiến hành trong các lĩnh vực và theo cách thức giúp giảm 1 Theo https://en.wikipedia.org/ wiki/Carbon_footprint, Dấu chân carbon được nghĩa là toàn bộ nhóm phát thải khí nhà kính gây ra bởi một cá nhân, sự kiện, tổ chức, hoặc sản phẩm được mô tả qua lượng CO2 tương đương . khí thải cac-bon bên ngoài và giảm khí thải cac-bon trong hoạt động nội bộ ngân hàng. Theo bà Vũ Xuân Nguyệt Hồng- đại diện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), “ngân hàng xanh là các hoạt động, nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng nhằm khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải cac-bon” (Đỗ Lê 2013). Như vậy, khái niệm về ngân hàng xanh đều hướng đến các vấn đề chính: (i) Giảm phát thải cac-bon trong hoạt động nội bộ ngân hàng; (ii) phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh và (iii) thúc đẩy hoạt động vì môi trường thông qua chính sách tín dụng xanh... Cụ thể, các ngân hàng giảm thải cac-bon thông qua việc giảm thiểu tác động của những hoạt động trong ngân hàng ảnh hưởng đến môi trường như việc sử dụng điện, nước, giấy, vật dụng văn phòng Do đó các ngân hàng hướng tới giảm số lượng các chi nhánh, văn phòng, xây dựng các cơ sở hạ tầng “xanh”, sử dụng những trang thiết bị ít gây ảnh hưởng đến môi trường, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng, Đồng thời, họ cũng phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh là phát triển các sản phẩm dịch vụ có thể giảm lượng các-bon, như các dịch vụ ngân hàng điện tử (phone banking, internet banking, mobile banking), dịch vụ thanh toán tự động, thanh toán không dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh toán qua thẻ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng khuyến khích khách hàng quan tâm môi trường bằng việc áp dụng chính sách tín dụng xanh- chính sách có những ưu đãi đối với các dự án thân thiện môi trường, dự án bảo vệ môi trường, thực hiện thẩm định rủi ro môi trường- xã hội trong hoạt động cấp tín dụng 2.1.2. Các nghiên cứu về ngân hàng xanh Nghiên cứu của Biswas (Biswas 2011) làm nổi bật những lợi ích chính, những thách thức, các khía cạnh chiến lược của ngân hàng xanh. Nghiên cứu cũng trình bày tình trạng của các ngân hàng Ấn Độ và khuyến nghị các ngân hàng phải đóng vai trò chủ động đưa ra vấn đề môi trường và sinh thái như là một phần của nguyên tắc cho vay của họ, nhờ đó sẽ buộc các ngành công nghiệp đầu tư cho quản lý môi trường, sử dụng công nghệ và hệ thống quản lý phù hợp để thúc đẩy ngân hàng xanh vì sự phát triển bền vững của quốc gia. Rahman và các cộng sự (Rahman et al 2013) nghiên cứu về ngân hàng xanh ở Bangladesh cho thấy các ngân hàng có thể trở nên “xanh” thông qua thực hiện những thay đổi trong 6 lĩnh vực chính trong hoạt động ngân hàng, đó là: quản lý đầu tư, quản lý tiền gửi, văn phòng xanh, quy trình tuyển dụng và phát triển nguồn nhân lực, trách nhiệm xã hội, và nhận thức của khách hàng. Sudhalakshmi và Chinnadorai CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 (2014) đã thấy rằng mặc dù các ngân hàng ở Ấn Độ đóng vai trò chủ động trong nền kinh tế mới nổi của Ấn Độ nhưng vẫn chưa có sự dẫn đầu trong vấn đề ngân hàng xanh. Nhóm tác giả cũng đưa ra các định hướng để các ngân hàng trở nên “xanh” như dựa vào các giao dịch online để giảm sử dụng giấy càng nhiều càng tốt, áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong cho vay, coi vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên là nguyên tắc coi trọng trong đánh giá khoản cho vay và có sự hợp tác của các khách hàng trong việc giảm cac-bon, chủ động theo đuổi các chương trình xanh vì sự phát triển bền vững. Nghiên cứu của Raad Mozib Lalon (2015) tập trung vào các hoạt động ngân hàng xanh của các ngân hàng ở Bangladesh và so sánh những hoạt động của ngân hàng xanh của các NHTM. Đồng thời nghiên cứu này cũng thảo luận về các quy định liên quan đến ngân hàng xanh ở đất nước này. Từ đó, tác giả đưa ra các khuyến nghị như ngân hàng Bangladesh phải theo dõi các hoạt động ngân hàng xanh của các ngân hàng; Chính phủ nên khuyến khích và cố gắng để tạo ra nhận thức về ngân hàng xanh, có sự phối hợp của các đơn vị có liên quan để chia sẻ kiến thức và bí quyết kỹ thuật, cũng như có cơ sở dữ liệu để hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn thực hành ngân hàng xanh một cách có hiệu quả. Gần đây nhất, Biswas (2016) đã tìm hiểu tầm quan trọng của ngân hàng xanh, xem xét kinh nghiệm quốc tế và rút ra những bài học quan trọng để phát triển bền vững ở Ấn Độ. Ở Việt Nam, đã có nghiên cứu của Nguyễn Hữu Huân (2014) về xây dựng ngân hàng xanh ở Việt Nam, chỉ ra sự quan trọng của nghiệp vụ ngân hàng xanh, tham khảo những kinh nghiệm quốc tế và những bài học cho hoạt động của ngân hàng Việt Nam và sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Nghiên cứu của Vũ Thị Kim Oanh (2015) cũng phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng và phát triển ngân hàng xanh, trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị để phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam như hệ thống ngân hàng phải có những hành động thiết thực triển khai ngân hàng xanh và tín dụng xanh nhằm hướng tới phát triển bền vững, nếu không hệ thống ngân hàng và nền kinh tế sẽ trả những cái giá rất đắt. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này áp dụng phương pháp phân tích nội dung và số liệu liên quan ngân hàng xanh từ các báo cáo thường niên năm 2016 của các ngân hàng được công bố trên các trang thông tin điện tử của ngân hàng. Đồng thời, nghiên cứu này cũng phân tích các thông tin liên quan hoạt động ngân hàng xanh từ các tạp chí chuyên ngành và trang thông tin điện tử của các tạp chí để tìm hiểu về kinh nghiệm của một số quốc gia khi triển khai chính sách về ngân hàng xanh và để có những thông tin cập nhật về thực trạng hoạt động ngân hàng xanh ở Việt Nam. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Kết quả 3.1.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới Trên thế giới đã có khá nhiều quốc gia triển khai chính sách về ngân hàng xanh. Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động ngân hàng xanh thông qua chính sách “Tín dụng Xanh”. Chính sách này của Trung Quốc được ban hành vào tháng 07/2007 nhằm khuyến khích các ngân hàng Trung Quốc thực hiện cấp tín dụng cho các dự án ít gây ô nhiễm, thân thiện với môi trường hay sử dụng năng lượng tái tạo. Chính sách Tín dụng xanh cũng đã đạt được những kết quả ban đầu khá ấn tượng với sự gia tăng đáng kể nguồn vốn vào các dự án xanh tại Trung Quốc Tuy nhiên, Trung Quốc đã mất gần 5 năm kể từ khi bắt đầu ra chính sách cho đến khi xây dựng được một hướng dẫn tương đối chi tiết để thực hiện chính sách này (tháng 02/2012). Một trong những khó khăn lớn nhất của việc thực hiện chính sách này là việc thiếu đi một hệ thống đánh giá đáng tin cậy về các ngành nghề và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường để làm căn cứ cho các ngân hàng phân loại dự án, đặc biệt là khi nhiều ngành gây ô nhiễm cũng đang là những ngành CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 mang lại lợi nhuận cao cho nhiều địa phương. Ở Mỹ đã có quy định về trách nhiệm đối với môi trường không chỉ của doanh nghiệp gây ô nhiễm mà còn của các bên liên quan khác, trong đó có thể bao gồm cả ngân hàng cho vay vốn cho các công trình, dự án gây ô nhiễm khi thông qua Đạo luật Bồi hoàn Môi trường Toàn diện (CERCLA- Comprehensive Environmental Response, Compensation, and Liability Act) năm 1980. Mặc dù Đạo luật này có miễn trừ trách nhiệm của người cho vay, nhưng những trường hợp người cho vay có tham gia một mức nhất định đến việc đảm bảo an toàn môi trường, xã hội của công trình hay dự án gây ô nhiễm thì cũng phải nộp phạt một khoản phí không nhỏ. Bên cạnh đó, những quy định nghiêm ngặt của CERCLA về bồi hoàn môi trường cũng tác động gián tiếp đến các ngân hàng vì nếu phải bồi hoàn môi trường thì chủ đầu tư dự án sẽ mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Tại châu Âu, năm 1989, Ủy ban Châu Âu (EC) đưa ra một bản dự thảo Chỉ thị về trách nhiệm dân sự đối với những tổn hại do rác thải. Tuy nhiên, đến năm 2004, Chỉ thị này mới được chính thức đưa ra sau khi EC thu hẹp bớt những quy định về người chịu trách nhiệm với cơ sở gây ô nhiễm do các ngân hàng châu Âu lo ngại đây sẽ trở thành một CERCLA thứ hai. Sau khi Chỉ thị này có hiệu lực (từ tháng 4/2004), các nước thành viên của EC có ba năm để xây dựng luật tại quốc gia mình. Tuy nhiên, đến tháng 07/2010 việc này mới được hoàn tất nên đánh giá về hiệu quả thực hiện còn hạn chế. Bên cạnh việc luật hóa trách nhiệm như các ví dụ ở trên, có một số nỗ lực khác ngoài nhà nước nhằm thúc đẩy trách nhiệm của ngành ngân hàng đối với môi trường và xã hội, như: Sáng kiến tài chính của chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEPFI), Cam kết hiệp ước toàn cầu của Liên Hiệp Quốc (UNGC), Nguyên tắc đầu tư có trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc, Nguyên tắc xích đạo (EP), Nguyên tắc Các-bon, Nguyên tắc khí hậu, ISO 26000 và một số sáng kiến, dự án khác. Trong đó, EP- thỏa thuận không cho tài trợ trực tiếp các dự án mà chủ đầu tư dự án không hoặc không thể tuân thủ các chính sách và quy trình về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, là bộ chuẩn mực được chính các tổ chức tài chính xây dựng và cam kết thực hiện. EP được chính thức ra đời năm 2003 và đến nay đã có 78 tổ chức tài chính tham gia cam kết. Hiện nay, EP được xem như bộ chuẩn mực tự nguyện mang tính hướng dẫn tốt nhất đối với các nhà đầu tư tài chính. 3.1.2. Thực trạng ngân hàng xanh ở Việt Nam Vấn đề giảm thải khí cac- bon trong hoạt động nội bộ ngân hàng: Hiện nay, quy mô ngày càng tăng của các ngân hàng làm tăng lượng khí thải cac-bon ra môi trường xung quanh. Chỉ tính đến thời điểm tháng 10/2016, hệ thống NHTM Việt Nam đã có 10.203 chi nhánh, phòng giao dịch phủ khắp các tỉnh thành trong nước2. Với số lượng các chi nhánh khổng lồ như vậy, khi hoạt động, các ngân hàng sẽ làm tăng đáng kể lượng khí thải cac-bon vào môi trường do sử dụng nhiều năng lượng, máy điều hòa, thiết bị in ấn... Qua đó, tác động xấu đến môi trường, làm ảnh hưởng đến nguồn không khí và môi trường tự nhiên xung quanh. Về việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ xanh: Hiện nay, các ngân hàng đều đang phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử- một trong những hoạt động làm xanh hóa hoạt động ngân hàng. Từ đó khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Phó Giám đốc NHNN Chi nhánh TP Hồ Chí Minh Trần Ðình Cường cho biết: “Theo thống kê, đã có 65 NHTM cung ứng dịch vụ internet banking, 35 NHTM cung ứng dịch vụ mobile banking và nhiều tổ chức trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán điện tử. Nhờ sự phát triển nhanh của dịch vụ thanh toán điện tử, tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm còn khoảng 12%, từ mức hơn 14% của năm 2010” 3. Cụ 2 Số liệu từ lienvietpostbank.com.vn/tin-tuc- su -k ien / t i n - l i env ie tpos tbank / n o i - d u n g / 3 1 - 1 0 - 2 0 1 6 - lienvietpostbank-co-mang-luoi- rong-nhat-viet-nam 3 https://www.baomoi.com/ngan- hang-day-manh-phat-trien-dich- vu-truc-tuyen/c/23438367.epi CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018 thể, theo thống kê của NHNN, từ đầu năm đến tháng 7/2017, tỷ trọng tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần, từ 14,68% xuống còn 11,35%4. Tuy nhiên, “người dân Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt khi có đến 90% các giao dịch bằng thẻ đơn thuần chỉ là rút tiền tại máy ATM và chỉ có 10% còn lại là dùng để thanh toán qua POS (máy chấp nhận thanh toán thẻ)”5. Về việc phát triển tín dụng xanh: Trước đây, các ngân hàng chưa có chính sách tín dụng xanh hay chính sách ưu tiên cho các hoạt động liên quan tới bảo vệ môi trường. Nhưng với sự đẩy mạnh tuyên truyền về các chính sách bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, cùng các hoạt động tài trợ tăng cường nhận thức và thúc đẩy triển khai từ NHNN và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO) thì ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu quan tâm tới tín dụng xanh, quan tâm tới các dự án đầu tư mang lại lợi ích cho môi trường. Các quy định về chính sách tín dụng xanh đã thấy ở VietinBank, Techcombank, ABBANK, Sacombank Xu hướng tín dụng hướng tới phát triển toàn diện và bền vững có thể 4 Số liệu thống kê trên https:// www.sbv.gov.vn 5 ngan-hang-d ia -oc /phat - t r ien- thanh- toan-khong-dung- t ien - mat-tai-viet-nam-van-con-nhieu- cai-kho-316401.html. còn mạnh hơn trong thời gian tới với sự hỗ trợ mạnh mẽ về chính sách của cơ quan quản lý. Nhiều ngân hàng trong nước đã và đang triển khai các sản phẩm tín dụng xanh như cho vay tiết kiệm năng lượng, cho vay năng lượng tái tạo, cho vay sản xuất sạch hơn (Lê Hà, 2015). Tuy nhiên, hiện các “dòng tín dụng xanh” phần lớn vẫn dựa trên các dự án có tài trợ quốc tế. Bởi ngân hàng vẫn còn e ngại về rủi ro tín dụng từ các dự án đầu tư xanh (Thành Long, 2015). 3.2. Thảo luận Với những kết quả trên cho thấy việc phát triển ngân hàng xanh ở các ngân hàng Việt Nam còn nhiều thách thức. Để giảm lượng cac-bon và phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xanh, khách hàng cần có thói quen sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt và giao dịch qua ngân hàng điện tử. Tuy nhiên, yếu tố văn hóa, thói quen tiêu dùng và trình độ dân trí là một rào cản đối với việc phát triển các dịch vụ ngân hàng ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam. Khách hàng vẫn còn e ngại về tính an toàn, ổn định của các phương thức thanh toán điện tử. Hơn nữa, việc nghẽn mạng, mất kết nối vẫn thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng đến chất lượng đường truyền, ảnh hưởng đến tính liên tục và ổn định của các dịch vụ. Bên cạnh đó, chênh lệch về hạ tầng công nghệ giữa thành thị và nông thôn còn cao cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc tăng khả năng thâm nhập của các dịch vụ ngân hàng điện tử ở các vùng sâu, vùng xa. Về phát triển tín dụng xanh chưa được các ngân hàng quan tâm nhiều là do các ngân hàng chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của tín dụng xanh trong sự phát triển bền vững của ngân hàng, cũng như do chưa có những quy định pháp lý chặt chẽ liên quan tới vấn đề này. Đồng thời việc áp dụng chính sách tín dụng xanh sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng như chi phí cho việc thẩm định rủi ro môi trường xã hội, chi phí ưu đãi về lãi suất cho các dự án thân thiện môi trường, chi phí dự phòng do việc tài trợ các dự án này thường đòi hỏi số vốn cao hơn mà thời gian thu hồi vốn chậm hơn, tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng Đối với các quy định pháp lý thì hiện nay, các chế tài về xử lý ô nhiễm quy định trong Luật Bảo vệ môi trường cũng như trong Bộ luật Hình sự (phần quy định về tội phạm môi trường) cũng chỉ áp dụng với các tổ chức, cá nhân trực tiếp gây ô nhiễm, chưa có quy định chế tài đối với đơn vị tài trợ hay cho vay các dự án gây ô nhiễm. Do không bị quy kết về mặt trách nhiệm, nên cán bộ tín dụng của các ngân hàng cũng không quan tâm đánh giá tác động môi trường trong quá trình thẩm định cho vay. Ngoài ra, việc các ngân hàng không thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội còn do họ chưa hiểu biết về vấn đề này. Tại Hội thảo “Quản CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018 lý rủi ro môi trường và xã hội trong ngành Ngân hàng” do NHNN tổ chức vào ngày 21-22/8/2012, Công ty Tư vấn MCG trình bày kết quả khảo sát của họ về hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong ngành Ngân hàng ở Việt Nam thì 89% số ngân hàng tham gia khảo sát không biết đến bất kỳ tài liệu hướng dẫn hay tiêu chí nào về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong ngành tài chính; 93% các ngân hàng cũng cho rằng cần phải có hướng dẫn về vấn đề này (PanNature). Tuy vậy, nguyên nhân chính của việc các NHTM chưa phát triển tín dụng xanh là do họ chưa nhận thức sâu sắc được những rủi ro mà một dự án gây ô nhiễ
Tài liệu liên quan