Để tiến tới mục tiêu xây dựng Việt Nam thành quốc gia theo tôn chỉ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh, trước hết chúng ta phải hiện thực hóa được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong cộng đồng xã hội. Có thể tiến hành bằng nhiều
giải pháp và một trong những giải pháp được coi là hữu hiệu nhất, đó chính là thông qua việc đẩy
mạnh phát triển hoạt động Tài chính vi mô. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, cũng như
thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy, muốn xử lý tận gốc tình trạng đói nghèo, phải ngăn chặn
được đói nghèo mới xuất hiện thêm cũng như tái đói nghèo trở lại.
Trong những năm qua hoạt động tài chính vi mô của Việt Nam đã có những đóng góp đáng
kể vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên so với yêu cầu và tiềm năng phát triển, lĩnh vực tài
chính vi mô cần có những giải pháp hữu hiệu, nhằm khắc phục những hạn chế về mọi mặt, để có thể
phát triển mạnh mẽ hơn cả chiều rộng và chiều sâu, nhằm vươn lên góp phần hoàn thành tốt trọng
trách xóa đói giảm nghèo bền vững tại Việt Nam.
Thông qua nội dung bài viết này, người viết hy vọng cung cấp được một số thông tin hữu
ích xoay quanh chủ đề tài chính vi mô gắn với hoạt động xóa đói giảm nghèo; đồng thời nhận được
nhiều ý kiến trao đổi với mục tiêu xây dựng và phát triển hoạt động tài chính vi mô Việt Nam an
toàn, bền vững, để có thể đóng góp nhiều hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam.
13 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển tài chính vi mô - giải pháp hữu hiệu cho xóa đói giảm nghèo bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VI MÔ - GIẢI PHÁP HỮU HIỆU
CHO XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Đỗ Linh Hiệp*, Lê Thị Tuyết Hoa**
TÓM TẮT
Để tiến tới mục tiêu xây dựng Việt Nam thành quốc gia theo tôn chỉ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh, trước hết chúng ta phải hiện thực hóa được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
bền vững, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong cộng đồng xã hội. Có thể tiến hành bằng nhiều
giải pháp và một trong những giải pháp được coi là hữu hiệu nhất, đó chính là thông qua việc đẩy
mạnh phát triển hoạt động Tài chính vi mô. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, cũng như
thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy, muốn xử lý tận gốc tình trạng đói nghèo, phải ngăn chặn
được đói nghèo mới xuất hiện thêm cũng như tái đói nghèo trở lại.
Trong những năm qua hoạt động tài chính vi mô của Việt Nam đã có những đóng góp đáng
kể vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên so với yêu cầu và tiềm năng phát triển, lĩnh vực tài
chính vi mô cần có những giải pháp hữu hiệu, nhằm khắc phục những hạn chế về mọi mặt, để có thể
phát triển mạnh mẽ hơn cả chiều rộng và chiều sâu, nhằm vươn lên góp phần hoàn thành tốt trọng
trách xóa đói giảm nghèo bền vững tại Việt Nam.
Thông qua nội dung bài viết này, người viết hy vọng cung cấp được một số thông tin hữu
ích xoay quanh chủ đề tài chính vi mô gắn với hoạt động xóa đói giảm nghèo; đồng thời nhận được
nhiều ý kiến trao đổi với mục tiêu xây dựng và phát triển hoạt động tài chính vi mô Việt Nam an
toàn, bền vững, để có thể đóng góp nhiều hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Từ khóa: Tài chính vi mô; xóa đói giảm nghèo, Việt Nam
MICROFINANCE DEVELOPMENT - EFFECTIVE SOLUTIONS FOR
SUSTAINABLE POVERTY REDUCTION IN VIETNAM
ABSTRACT
Towards the goal of building Vietnam into a country under the principles of a prosperous
people, a strong country and an equitable and civilized society, first of all we must realize hunger
eradication, sustainable poverty reduction, narrowing the rich-poor gap in the social community.
Can proceed with multiple solutions, and one solution is considered the most effective, it is through
the development of activities promoting microfinance. The experience of countries in the world,
as well as practical Vietnam last time shows, want to handle the root of poverty, must prevent new
poverty as well as re-appeared back poverty.
* PGS,TS.Trường Đại học Kinh tế-Kỹ thuật Bình Dương. Email: dlhiep@ktkt.edu.vn
** PGS,TS.Trường ĐH Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh. Email: hoa_letuyet@yahoo.com
55
Phát triển tài chính . . .
1. TÀI CHÍNH VI MÔ - NGƯỜI BẠN
ĐỒNG HÀNH VỚI XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
1.1. Xóa đói, giảm nghèo: Thành tựu
bước đầu và những khó khăn thách thức
Đói nghèo là một hiện tượng xã hội khách
quan. Xây dựng xã hội dân chủ công bằng văn
minh phải đi đôi với việc giảm thiểu mức độ
đói nghèo trên mọi phương diện.
Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, hạn chế
phân hóa giầu nghèo đã và đang được coi là
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Điều đó đã được xác nhận không chỉ thông
qua nội dung các văn kiện đại hội Đảng, các
chủ trương chính sách của cơ quan quản lý
Nhà nước, điều hành Chính phủ mà nó cũng
đã được ghi nhận thông qua những số liệu
thống kê kết quả hoạt động này, bởi các tổ
chức trong nước và quốc tế.
Thật vậy, sau 10 năm nỗ lực thực hiện
“chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa
đói, giảm nghèo (2002-2013) và 5 năm thực
hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính
phủ về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo
nhất trong cả nước (2008-2013)”, đất nước ta
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong
công tác xóa đói giảm nghèo.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua số
liệu trong một Báo cáo đánh giá nghèo Việt
Nam năm 2012, được công bố bởi tổ chức
Ngân hàng Thế giới (World Bank), trong hai
thập kỷ qua ở Việt Nam đã có hơn 30 triệu
người thoát khỏi đói nghèo. Tình trạng nghèo
đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ 60%
hồi đầu những năm 1990, xuống còn 20,7%
vào năm 2010.
Cũng theo đánh giá gần đây nhất của một
tổ chức Quốc tế - Tổ chức Nông lương Liên
Hợp Quốc (FAO), thì Việt Nam là một trong
số các quốc gia đạt được thành tích nổi bật
trong việc giảm số người bị đói từ 46,9%
(tương đương 32,16 triệu người) ở giai đoạn
1990 – 1992 xuống chỉ còn 9% (tương đương
8,01 triệu người) trong giai đoạn 2010 – 2012
và đã đạt được mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ 1, hướng tới mục tiêu giảm một nửa số
người bị đói vào năm 2015.
Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, đến hết năm 2013, bình quân
số hộ nghèo giảm 2% mỗi năm; các huyện
In recent years the microfinance activities of Vietnam has made significant contributions to
the cause of poverty reduction.
In recent years the microfinance activities of Vietnam has made significant contributions to
the cause of poverty reduction.However compared to the requirements and potential for development,
micro-finance sector should have effective measures in order to overcome the limitations in all
aspects, to be able to grow stronger both width and depth in order to strive to fulfill the responsibility
for sustainable poverty reduction in Vietnam.
Through the content of this article, the writer hopes to provide some useful information
around microfinance topics associated with poverty reduction activities;and received many
opinions exchanges with the aim of building and developing microfinance operation Vietnam safe,
sustainable, to be able to contribute more to the work of poverty reduction in Vietnam.
Key words: Microfinance; poverty reduction, Vietnam
56
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nghèo, xã nghèo giảm bình quân trên 5% một
năm. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa đồng
đều và bền vững. Địa bàn các xã nghèo miền
núi, vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn
cao, chiếm 50% trong tổng số hộ nghèo cả nước.
Những thành tựu bước đầu đạt được trong
công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian
qua cần được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hơn
nữa, nếu không nguy cơ tái đói nghèo sẽ có
thể lại diễn ra, phá hủy những thành quả đã
đạt được từ những cố gắng nỗ lực của toàn xã
hội trong thời gian qua.
Có thể điểm qua một số khó khăn thách
thức chủ yếu mà công tác xóa đói giảm nghèo
hiện nay đang phải đối mặt:
Thứ nhất: Nhìn chung tình trạng đói
nghèo ở nước ta đã được giải quyết cơ bản,
song phần lớn những đối tượng đói nghèo còn
lại (khoảng 70% số người nghèo ở thời điểm
2010) hiện đang sinh sống ở những vùng sâu,
vùng xa, người dân tộc thiểu số trong điều
kiện môi trường tự nhiên và xã hội có nhiều
khó khăn, với nhiều mặt hạn chế (trình độ học
vấn, tình trạng sức khỏe, tài sản, môi trường
kinh tế-xã hội).
Thứ hai: Tình trạng đói, nghèo quay trở
lại diễn ra thường xuyên: Không ít người
dân trước đây thuộc đối tượng xóa đói, giảm
nghèo, sau thời gian nhận được sự hỗ trợ
thiết thực từ các chương trình xóa đói, giảm
nghèo đã vươn lên thoát cảnh đói nghèo. Tuy
nhiên, do những tác động rủi ro khách quan
bất thường như thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn,
biến đổi khí hậu, làm nẩy sinh những khó
khăn mới trong cuộc sống, có thể buộc họ
lại trở về trạng thái nghèo đói ban đầu. Hay
nói cách khác, họ lại trở về nhóm đối tượng
tiềm tàng cần được xóa đói, giảm nghèo và
từ đó góp phần tạo nguy cơ tiềm ẩn gia tăng
đói, nghèo. Theo đánh giá của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, “Tỷ lệ hộ tái nghèo,
phát sinh nghèo hàng năm còn cao. Bình quân
cứ 3 hộ thoát nghèo thì có một hộ tái nghèo,
phát sinh nghèo, bao gồm cả số hộ tái nghèo
và phát sinh nghèo do hậu quả thiên tai, lũ lụt,
dịch bệnh, do tách hộ”.
Thứ ba: Trải qua một quá trình phấn đấu
liên tục, Việt Nam được thế giới công nhận
thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung
bình. Điều này có ý nghĩa chính trị-xã hội rất
lớn, song cũng đặt ra những thách thức mới
đối với Việt Nam, xuất phát từ lý do nguồn hỗ
trợ của các tổ chức Quốc tế cho nước nghèo
sẽ không còn được duy trì với mức độ cao và
thường xuyên như trước đây. Vì vậy, nguồn
lực để chi cho hoạt động xóa đói, giảm nghèo
chủ yếu sẽ trông chờ vào nguồn nội lực, từ
nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong cộng
đồng xã hội; trong đó nguồn lực tài chính từ
nhà nước là chủ yếu. Tuy nhiên nguồn lực này
vốn đã hạn hẹp, lại luôn trong tình trạng khó
khăn: nợ công ngày càng cao, bội chi ngân
sách lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu
hướng giảm, do vậy sẽ ảnh hưởng nhiều tới
việc thực hiện tài trợ cho hoạt động này.
Thứ tư: Công cụ trực tiếp chủ yếu và cũng
là người bạn đồng hành trong công cuộc xóa
đói giảm nghèo chính là các tổ chức tài chính
vi mô (TCVM). Trong quá trình hoạt động, hệ
thống các tổ chức này (bao gồm cả chính thức
và bán chính thức) đã có nhiều đóng góp tích
cực vào những thành tựu chung của sự nghiệp
xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó hoạt động
TCVM cũng còn bộc lộ những mặt hạn chế,
yếu kém cả trên phương diện quản lý vĩ mô và
vi mô cần sớm được nghiên cứu khắc phục,
tạo điều kiện cần thiết để hệ thống này có thể
tiếp tục phát huy tốt vai trò của mình, đóng
góp tích cực trong sự nghiệp xóa đói giảm
nghèo bền vững tại Việt Nam.
57
Phát triển tài chính . . .
1.2. Phát triển tài chính vi mô - Giải pháp
hữu hiệu cho xóa đói giảm nghèo bền vững
Để tiến tới mục tiêu xây dựng Việt Nam
thành quốc gia theo tôn chỉ dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh, trước
hết chúng ta phải hiện thực hóa được mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững, thu hẹp
khoảng cách giàu-nghèo trong cộng đồng xã
hội. Muốn vậy, ngoài sự quan tâm lãnh đạo
của Đảng, triển khai thực hiện các giải pháp
đồng bộ của Nhà nước, sự đồng thuận hưởng
ứng của cả cộng đồng xã hội, với những động
thái khác nhau như: sự nỗ lực vươn lên của
bản thân người nghèo, hộ nghèo; sự chia sẻ,
đóng góp hỗ trợ tài lực của các tổ chức và
cá nhân người giầu, điều có ý nghĩa hết
sức quan trọng, đó là cần có những giải pháp
hữu hiệu để một mặt xử lý tận gốc tình trạng
đói, nghèo đang tồn tại; hạn chế việc nẩy sinh
những trường hợp đói nghèo mới xuất hiện
trong cộng đồng và mặt khác ngăn chặn hiện
tượng tái đói, nghèo có khả năng xuất hiện trở
lại thường xuyên trên diện rộng.
Để tìm hiểu vấn đề này ta hãy bắt đầu từ
một câu chuyện đơn giản. Trong dân gian
người ta thường hay nhắc tới một hình tượng
khá lý thú, để nói về cách xử lý khôn khéo
trong tình huống, khi muốn hỗ trợ người nào
đó vượt qua đói nghèo một cách hiệu quả, bền
vững. Đó là hành động mang tính từ thiện,
thay vì đưa cho một người nghèo đói con cá
để ăn, thì họ lại cho người này cái cần câu
cá. Điều này chứa đựng ẩn ý là nếu người
nghèo đói có được con cá, họ có thể no trước
mắt, nhưng sau khi ăn hết cá, họ lại trở về
tình trạng đói như trước. Còn với cái cần câu,
cũng tức là họ có được một công cụ để tự tìm
kiếm nhiều cá hơn, để tạo ra nguồn sống no
đủ lâu dài, không chỉ cho bản thân mà cho cả
gia đình
Vậy, cơ sở để bàn tới một trong những
giải pháp hữu hiệu nhằm thiết thực góp phần
xóa đói, giảm nghèo bền vững cũng chính là
việc đi tìm câu trả lời cụ thể, chính xác cho
một câu hỏi tương tự như: Làm thế nào để
giúp người nghèo có thể sở hữu những “chiếc
cần câu cá”?
Người viết muốn dùng biểu tượng được
lưu truyền trong dân gian “chiếc cần câu cá”
như trên để hình tượng hóa công cụ lao động,
công cụ sản xuất giản đơn mà người nghèo
cần có, để có thể thoát nghèo bằng chính sức
lao động của bản thân. Tuy nhiên trong thực
tế, nhu cầu cuộc sống con người không chỉ
đơn giản và luôn đơn giản như vậy! Giả sử
ngư dân này cần có nhiều cần câu hơn, hoặc
có những tấm lưới và thậm chí có thêm chiếc
thuyền để đánh bắt được nhiều hải sản hơn,
để họ có thể tự tin nói lời từ biệt với sự nghèo
khó của bản thân, gia đình và thậm chí đóng
góp một phần cho cộng đồng xã hội. Song
năng lực tài chính của bản thân lại rất hạn hẹp,
do vậy họ không thể tự đáp ứng được những
điều mình mong muốn.
Để giải quyết khó khăn này họ có thể tìm
đến, để giao dịch với một ngân hàng thương
mại được không? Về nguyên lý chung thì có,
nhưng không chắc nhu cầu của họ sẽ được đáp
ứng tại đây, bởi vì còn có quá nhiều điều kiện
và lý do khác nhau mà họ, với tư cách người đi
vay, không có khả năng đáp ứng được (nào là
tư cách pháp nhân, uy tín, năng lực tài chính,
nào là phương án đầu tư hiệu quả, khả năng
hoàn trả,). Những “rào cản” này không phải
ai trong số họ cũng dễ dàng vượt qua.Vậy là
để có thể tồn tại họ cần phải tìm phương án
giải quyết khác. Một trong những cách khá
phổ biến là có thể thông qua quan hệ với một
hoạt động tài chính vi mô “ngầm”- đó là hoạt
động cho vay nặng lãi (hay tín dụng “đen”)
58
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chẳng hạn. Thực ra trong nhiều tình huống,
những người nghèo biết rằng mình hành động
như vậy rất mạo hiểm, nhưng cũng đành liều
vì trước mắt họ chưa tìm ra con đường nào
khác khả dĩ hơn!
Có thể nói rằng, các hoạt động tài chính vi
mô sơ khai đã hình thành và tồn tại ngay từ khi
nền kinh tế hàng hóa –tiền tệ xuất hiện, dựa
trên nguyên lý chung: nguyên lý Cung - Cầu.
Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày, nếu các
nhu cầu tài chính cá nhân vượt quá khả năng
tự đáp ứng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp
tới sự tồn tại và phát triển của cá thể đó. Tuy
nhiên cũng không quá lo lắng điều này, bởi
lẽ chúng ta đang sống trong một cộng đồng
xã hội, cũng có nghĩa là trong lúc người này
đang trong tình trạng tạm thời “thiếu” thì lại
có người khác đang tạm thời “thừa”. Vấn đề
chỉ là ở chỗ, làm thế nào để tạo ra được cơ chế
tài chính thích hợp trong quá trình giải quyết
mâu thuẫn, sao cho “cầu” có thể gặp “cung”
một cách thích hợp và hiệu quả nhất mà thôi.
Ở giai đoạn sơ khai những hoạt động tài
chính này có quy mô nhỏ, rất gần gũi với đời
sống hàng ngày của các chủ thể trong cộng
đồng xã hội, kể cả về lý do xuất hiện cũng
như biện pháp xử lý chúng. Tuy nhiên, một
đặc điểm phổ biến là các mô hình tổ chức để
đáp ứng nhu cầu tài chính này, trong thời kỳ
sơ khai còn mang tính tự phát, với cơ chế hoạt
động và khả năng quản lý đơn giản, kém hiệu
quả, nguồn tài chính hạn hẹp, cơ sở pháp lý
chưa rõ ràng,nên khó có khả năng tồn tại và
phát triển bền lâu.
Trên phương diện lý thuyết, tồn tại một
số quan điểm cho rằng TCVM cũng chỉ mới
được biết đến với quan niệm chính thống lần
đầu tiên vào thập niên 70, gắn với sự kiện một
nhà kinh doanh tài chính - Ông Muhammad
Yunus đã đứng ra thành lập ngân hàng
Grameen, tại một thị trấn nhỏ vùng ngoại ô
Bangladesh. Sẽ không phải là sự kiện mang
dấu ấn quan trọng, gắn với sự xuất hiện quan
niệm về tài chính vi mô, nếu như ngân hàng
của ông Muhammad, cũng như muôn vàn
ngân hàng thương mại thời đó, chỉ quan tâm
tới mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, chứ không
quan tâm đặc biệt tới việc cung cấp những
dịch vụ tài chính vì mục tiêu xã hội, nhằm hỗ
trợ giúp đỡ đối tượng người nghèo trong cộng
đồng xã hội.
Đánh giá cao tính nhân văn, xã hội trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng; đồng thời
với mong muốn mở rộng hoạt động tài chính
này trên phạm vi toàn thế giới, năm 2006 Ủy
ban Nobel đã trao cho Grameen Bank và nhà
sáng lập Muhammad Yunus giải thưởng Nobel
Hòa bình “Vì những nỗ lực của họ trong việc
tạo ra sự phát triển kinh tế và xã hội”. Tiếp
theo, các mô hình tổ chức tài chính vi mô
tương tự cũng xuất hiện ngày càng nhiều tại
các quốc gia trên thế giới như : mô hình SHG
(The self – help group) tại Ấn Độ hoặc BRI
(Bank Rakyat Indonesia) tại Indonesia,
Cũng từ đây, hoạt động TCVM có tổ chức tạo
được điểm nhấn hết sức quan trọng, thu hút
ngày càng nhiều sự quan tâm tham gia đông
đảo, rộng khắp trên toàn cầu, tạo cơ sở cho
niềm tin vào khả năng đẩy lùi đói nghèo trên
thế giới một cách bền vững.
Thực tiễn cho thấy TCVM được đánh giá
như một công cụ tác động mạnh mẽ, có hiệu
quả tới tình trạng đói nghèo ở nhiều quốc gia
trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam. Thông
qua hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính ngân
hàng, các tổ chức TCVM đã giúp cho người
nghèo, người có thu nhập thấp vượt qua khó
khăn, cải thiện điều kiện cuộc sống của mình.
Vào thời điểm năm 2011, qua theo dõi
và nghiên cứu thực tế của mình về hoạt động
59
Phát triển tài chính . . .
tài chính vi mô gắn với kết quả xóa đói giảm
nghèo tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới đã
công bố trên trang Global Findex – cơ sở dữ
liệu tài chính toàn cầu – với nội dung thông
tin như sau: ở Việt Nam có khoảng 79%
người dân không được tiếp cận với các dịch
vụ tài chính chính thức. Hầu hết họ không thể
hoặc không được tiếp cận dịch vụ ngân hàng
nhưng cần có nhu cầu rất lớn về tiết kiệm và
vay mượn. Nhiều khi để giải quyết nhu cầu tài
chính của mình họ phải tự xoay sở từ nhiều
nguồn vốn khác nhau. Trong phần lớn trường
hợp, nhiều người nghèo buộc phải vay nặng
lãi với lãi suất cao hơn 100%/năm.
Rõ ràng mọi nhu cầu tài chính nhỏ lẻ, gắn
với việc duy trì cuộc sống, lao động sản xuất
thường nhật của người nghèo, người có thu
nhập thấp, luôn trông chờ vào mối quan hệ hỗ
trợ cần thiết từ những tổ chức tài chính tuy chỉ
với quy mô nhỏ, nhưng rất gần gũi thân thiện,
đồng cảm và đáng tin cậy- Đó cũng chính là
các tổ chức TCVM chính thức, được tổ chức
và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật ở
mỗi quốc gia.
Trong nội dung một bản báo cáo Đánh giá
nghèo Việt Nam năm 2012 của Ngân hàng
thế giới thì tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm
từ gần 60% hồi đầu những năm 1990 xuống
20,7% năm 2010 và tiếp tục giảm xuống còn
11,1% năm 2012. Đây là con số thực sự ấn
tượng, có sự đóng góp không nhỏ của chính
sáchTCVM, đưa Việt Nam trở thành một tấm
gương trong công cuộc xóa đói giảm nghèo,
cải thiện cuộc sống người dân. Tuy nhiên, với
đặc trưng là một trong những quốc gia có tỷ lệ
người nghèo và người có thu nhập thấp tương
đối cao, phần lớn người nghèo Việt Nam có
nguồn sống chính dựa vào nông lâm nghiệp
với điều kiện sản xuất khó khăn, năng suất
lao động thấp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện
thiên nhiên, và ít được tiếp cận với các
dịch vụ tài chính, cho dù chỉ là TCVM, nên
nhu cầu cung ứng dịch vụ TCVM cho người
nghèo lại càng trở nên vô cùng lớn.
TCVM có khả năng cung cấp các loại
hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho cộng
đồng người nghèo nhằm giúp họ cải thiện
đời sống, phát triển kinh tế và đóng góp cho
xã hội. Mặc dù vốn vay của tổ chức TCVM
không lớn như ngân hàng thương mại hay
ngân hàng chính sách, nhưng lại có ý nghĩa
vô cùng quan trọng bởi những khoản vay này
đến được với người nghèo và nghèo nhất vào
đúng thời điểm cần thiết nhất, giúp họ khởi
tạo sản xuất kinh doanh, tạo dựng tài sản, ổn
định chi tiêu và bảo vệ họ khỏi nghèo đói, cho
dù việc này cần phải có thời gian.
Vì vậy, để góp phần đảm bảo an sinh xã
hội và xóa đói giảm nghèo bền vững, nhà nước
cần có những biện pháp đồng bộ mạnh mẽ,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích
phát triển hoạt động TCVM cả về số lượng
cũng như chất lượng; cả chiều rộng cũng như
chiều sâu; tăng cường và duy trì tính ổn định,
an toàn, bền vững của hệ thống này trên phạm
vi toàn quốc.
2. TÀI CHÍNH VI MÔ VIỆT NAM -
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN
2.1. Vài nét về qúa trình hình thành và
phát triển tài chính vi mô ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các hoạt động TCVM không
chính thức cũng đã xuất hiện từ lâu dưới các
hình thức giản đơn không được tổ chức chính
thức như hụi, hội, cho vay nặng lãi,
Tuy nhiên, có thể ghi nhận từ cuối những
năm 80,90 hoạt động TCVM chính thức mới
được triển khai, thông qua nhiều hình thức
hoạt động, trong đó chủ yếu là những chương
trình hỗ trợ của các Tổ chức phi chính phủ
60
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quốc tế