Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 56 
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG: 
KẾT QUẢ 3 NĂM 
Đỗ Đình Công*, Nguyễn Hoàng Bắc*, Nguyễn Hữu Thịnh*, Trần Xuân Hùng*, Ung Văn Việt*, 
Phạm Công Khánh** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực tràng đã cho thấy được nhiều ưu điểm soi với mổ mở 
cả về kỹ thuật lẫn kêt quả sớm sau mổ. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật 
nội soi điều trị ung thư trực tràng sau 3 năm. 
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân ung thư trực tràng được điều trị bằng phẫu thuật nội soi 
cắt trước, cắt trước thấp, phẫu thuật Miles từ tháng 1/2007 đến 12/2007 tại Bệnh viện Đại học Y Dược 
TPHCM. 
Kết quả: Có 46 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh. Thời gian theo dõi trung bình là 34 tháng, tỷ lệ tái 
phát tại chỗ là 13%, di căn xa 13%, chúng tôi không phát hiện trường hợp tái phát tại lỗ trocar nào, tỷ lệ sống 
sót tích lũy là 76,1%. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực tràng hiệu quả và an toàn về mặt ung thư học và tỷ lệ 
sống còn sau 3 năm là 76,1%. 
Từ khóa: ung thư trực tràng, phẫu thuật nội soi, thời gian sống còn. 
ABSTRACT 
LAPAROSCOPIC TREATMENT OF RECTAL CANCER: THREE-YEAR RESULTS 
Do Dinh Cong, Nguyen Hoang Bac, Nguyen Huu Thinh, Tran Xuan Hung, Ung Van Viet, Pham Cong 
Khanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 56 - 60 
Aims: Laparoscopic treatment of rectal cancer has showed many advantages in comparision with open 
surgery on technique and early results. The aim of study was to evaluate the three-year results of laparoscopic 
treatment of rectal cancer. 
Methods: We reviewed rectal cancer patients who underwent laparoscopic treatment at UMC from Jan to 
Dec 2007. 
Results: There were 46 patients. Three-year results were: local recurrence – 13%; distal recurrence – 13%; 
survival rate – 76.1% 
Conclusions: Laparoscopic treatment of rectal cancer was effective and safe on oncologic aspect. Three-year 
survival rate was 76.1%. 
Key words: rectal cancer, laparoscopic, survival time. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư đại trực tràng là một bệnh thường 
gặp, trong đó trực tràng là vị trí thường gặp 
nhất trên toàn bộ khung đại tràng. 
Quan điểm về điều trị ung thư trực tràng 
(UTTT) đã thay đổi rất nhiều trong hơn hai thập 
niên gần đây. Heald(6) chứng minh được vai trò 
của mạc treo trực tràng là nguyên nhân dẫn đến 
tái phát ung thư sau mổ và đưa ra khái niệm cắt 
toàn bộ mạc treo trực tràng (CTBMTTT) trong 
điều trị ung thư trực tràng. Nguyên tắc này đã 
*Bộ môn ngoại ĐHYD TpHCM ∗ *Khoa Ngoại Tiêu hóa – Gan Mật, Bệnh viện ĐHYD TpHCM. 
Tác giả liên lạc: Ths. BS. Nguyễn Hữu Thịnh ĐT: 0918089282. Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 57
trở thành tiêu chuẩn vàng trong điều trị ung thư 
trực tràng phần ba giữa và dưới. Phẫu thuật nội 
soi bắt đầu được áp dụng trong điều trị ung thư 
trực tràng vào đầu thập kỷ 1990. Những nghiên 
cứu y học chứng cứ mức độ III đã công nhận lợi 
ích của phẫu thuật nội soi ung thư đại trực tràng 
như giảm chấn thương phẫu thuật, giảm biến 
chứng hậu phẫu, thời gian hồi phục nhanh, sẹo 
mổ nhỏ, tỷ lệ sống còn tương tự như các phẫu 
thuật mổ mở kinh điển và đạt được những kết 
quả tốt về mặt ung thư học. 
Phẫu thuật nội soi CTBMTTT được thực 
hiện đầu tiên bởi Leroy(10) vào năm 1991. Kể từ 
đó đến nay, đã có nhiều nghiên cứu chứng 
minh tính hiệu quả và an toàn trên khía cạnh 
kỹ thuật và ung thư học so với mổ mở. Năm 
2002, Nguyễn Hoàng Bắc đã thực hiện cắt 
đoạn đại trực tràng nối máy nội soi đầu tiên ở 
Việt Nam, sau đó từ năm 2003 các trung tâm 
ngoại khoa lớn (BV Chợ Rẫy, BV Đại Học Y-
Dược, BV Việt Đức, BV 108) đã áp dụng kỹ 
thuật cắt bỏ toàn bộ mạc treo trực tràng trong 
phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực tràng 
và ngày càng triển khai rộng rãi. 
Những công trình nghiên cứu về phẫu thuật 
nội soi ung thư trực tràng ở Việt Nam hiện nay 
còn ít, những nghiên cứu đó(12,13,12,17,17) chỉ dừng ở 
mức độ đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật. 
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này 
nhằm đánh giá tính kết quả về mặt ung thư học 
và sống còn của phương pháp phẫu thuật này 
sau 3 năm. 
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân tại bệnh viện Đại học Y Dược 
từ 1/2007-12/2007, được chẩn đoán là carcinom 
tuyến nguyên phát của trực tràng được điều trị 
bằng phẫu thuật nội soi cắt trước, cắt trước thấp, 
phẫu thuật Miles. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu, cắt ngang mô tả 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Không liên lạc được bệnh nhân bệnh nhân 
Những bệnh nhân được thực hiện phẫu 
thuật làm sạch. 
Những bệnh nhân có u khác trên khung đại 
tràng được chẩn đoán trước hoặc trong mổ và 
được phẫu thuật mở rộng cắt đoạn đại trực 
tràng kèm cắt đại tràng phải, đại tràng ngang 
hoặc đại tràng trái, hoặc có bệnh kèm theo như 
đa polyp đại trực tràng. 
Kỹ thuật mổ 
Đối với UTTT phần ba trên: phẫu thuật cắt 
trước và phục hồi lưu thông ruột bằng nối tận-
tận với kỹ thuật 2 stapler. 
UTTT phần ba giữa và dưới: phẫu thuật cắt 
trước thấp + CTBMTTT; nếu bờ dưới khối u 
cách rìa hậu môn dưới 5cm, phẫu thuật Miles 
được áp dụng. 
Trong tất cả các trường hợp, kỹ thuật phẫu 
tích từ trong được áp dụng và động mạch mạc 
treo tràng dưới đều được thắt tận gốc kèm 
theo nạo hạch lympho mức D2. Bờ cắt dưới 
cách bờ u 2cm. 
Số liệu được thu thập từ hồ sơ bệnh án, thăm 
khám trực tiếp bệnh nhân, sử dụng các phương 
tiện cận lâm sàng để tầm soát hoặc phát hiện tái 
phát tại chỗ, di căn xa, phỏng vấn qua điện 
thoại. Số liệu được thu thập theo mẫu định sẵn, 
được lưu trữ và thống kê bằng phần mềm SPSS 
15.0. Tỷ lệ sống còn, tỷ lệ sống không bệnh được 
ước lượng bằng phân tích sống còn Kaplan-
Meier. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi theo dõi được 46 bệnh nhân thỏa 
tiêu chuẩn chọn bệnh. Trong đó có 25 nữ (54%), 
21 nam (46%). Tuổi trung bình 62,9 (28-86). 
Bảng 1: Vị trí u 
 BN % 
1/3 trên 11 23,9 
1/3 giữa 19 41,3 
1/3 dưới 16 34,8 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 58 
Bảng 2: Phương pháp phẫu thuật 
 BN % 
Cắt đoạn đại trực tràng 36 78,3 
Phẫu thuật Miles 10 21,7 
Giải phẫu bệnh: tất cả các trường hợp đều là 
carcinom tuyến trực tràng. 
Bảng 3: Độ biệt hóa 
 BN % 
Rõ 14 30,4 
Vừa 29 63,0 
Kém 3 6,5 
Bảng 4: Giai đoạn sau mổ 
 BN % 
Giai đoạn I 1 2,2 
Giai đoạn II 33 71,7 
Giai đoạn III 12 26,1 
Bảng 5: Tái phát tại chỗ 
 BN % 
Không 40 87,0 
Có 6 13,0 
Bảng 6: Di căn xa 
 BN % 
Không 40 87,0 
Có 6 13,0 
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi không 
phát hiện trường hợp nào tái phát tại lỗ trocar. 
Thời gian theo dõi trung bình là 34 tháng, tỷ 
lệ sống sót tích lũy tại thời điểm 36 tháng là 
76,1% 
Ở giai đoạn II, tỷ lệ sống sót tích lũy tại thời 
điểm 36 tháng là 72,7% 
Ở giai đoạn III, tỷ lệ sống sót tích lũy tại thời 
điểm 36 tháng là 66,7%. Khác biệt về sống còn 
giữa hai giai đoạn là không có ý nghĩa thống kê 
với phép kiểm Log Rank (p=0,63>0,05) 
BÀN LUẬN 
Mục tiêu của phẫu thuật điều trị ung thư 
trực tràng là khỏi bệnh hoặc kéo dài thời gian 
sống còn của bệnh nhân. Chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả của 
phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực tràng 
sau 3 năm. 
Tỷ lệ tái phát tại chỗ trong nghiên cứu này là 
13%, cao hơn so với kết quả của một số tác 
giả(7,9,10) là từ 5-8%. Có hai nguyên nhân chính 
giải thích cho kết quả này: 1 - Mặc dù trong 
nhóm bệnh nhân này kết quả giải phẫu bệnh sau 
mổ đều cho thấy bờ cắt sạch, không còn tế bào 
ung thư nhưng chỉ xét đến diện cắt dưới mà 
chưa khảo sát diện cắt theo chu vi (CRM). Nhiều 
nghiên cứu(4,11) đã xác định CRM là yếu tố ảnh 
hưởng trực tiếp đến tái phát tại chỗ trong phẫu 
thuật điều trị ung thư trực tràng. Hầu hết những 
bệnh nhân trong nghiên cứu đều không được 
chụp cộng hưởng từ trước mổ nên việc đánh giá 
chính xác giai đoạn bệnh cũng như xác định 
CRM còn hạn chế. 2 – Hầu hết các trường hợp 
được CTBMTTT trong tường trình phẫu thuật 
đều không được ghi nhận trong quá trình phẫu 
tích có làm rách mạc riêng trực tràng trong mổ 
hay không, yếu tố này tương đương với khối u 
xâm lấn mạc riêng trực tràng. Đây cũng chính là 
mặt hạn chế của nghiên cứu hồi cứu. Jatzko(8) 
theo dõi 636 trường hợp ung thư trực tràng 
được điều trị triệt căn trong 5 năm cũng có tỷ lệ 
tái phát tại chỗ là 12%. 
Trước đây mối quan tâm về nguy cơ tái phát 
tại lỗ trocar là một trong những vấn đề được bàn 
cãi nhiều nhất trong phẫu thuật nội soi điều trị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 59
ung thư nói chung với lý luận bơm CO2 làm 
phát tán tế bào ung thư. Trong nghiên cứu này, 
không trường hợp di căn lỗ trocar nào được ghi 
nhận. Nhiều nghiên cứu(1,2,15,18) gần đây về phẫu 
thuật nội soi trực tràng cho thấy tỷ lệ tái phát tại 
lỗ trocar đã gần đạt ở mức 0%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống 
còn tích lũy sau 3 năm tính chung là 76,1%, đối 
với giai đoạn II là 72,7%, giai đoạn III là 66,7%. 
Ströhlein(16) nghiên cứu 389 bệnh nhân mổ mở 
và mổ nội soi do ung thư trực tràng theo dõi 
trong thời gian trung bình là 32 tháng cho thấy 
tỷ lệ sống còn ở nhóm mổ nội soi 75% ở giai 
đoạn I, 73% ở giai đoạn II, 51% ở giai đoạn III. 
Nghiên cứu của một số tác giả khác(3,5) cho thấy 
tỷ lệ sống còn sau 3 năm khoảng 74,4% trong 
phẫu thuật cắt trước. Như vậy, kết quả sống còn 
bệnh nhân ung thư trực tràng sau 3 năm trong 
nghiên cứu của chúng tôi tương tự với các tác 
giả khác. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, chỉ 
những bệnh nhân theo dõi được trong 3 năm 
mới đưa vào nghiên cứu. 
Như vậy tỷ lệ sống còn của chúng tôi 
tương tự với các tác giả khác. Tuy nhiên, trong 
nghiên cứu này, việc đánh giá giai đoạn trước 
mổ cũng như sau mổ vẫn không được chuẩn 
hóa. Hầu hết các trường hợp trước mổ chỉ 
dừng lại ở mức chẩn đoán bệnh chứ chưa đạt 
mức chẩn đoán giai đoạn bệnh. Ngoài ra, một 
số bệnh nhân ung thư trực tràng bị loại khỏi 
nghiên cứu này do mất dấu. Vì vậy kết quả có 
được có thể chưa phản ánh chính xác thực tế. 
Để có được con số chính xác hơn cần chuẩn 
hóa qui trình chẩn đoán, điều trị và theo dõi; 
có những nghiên cứu tiền cứu, theo dõi, tái 
khám bệnh nhân chặc chẽ hơn. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực 
tràng ngày càng phổ biến trên toàn thế giới và 
đã cho thấy được nhiều lợi ích, kết quả tốt trong 
điều trị. Với tỷ lệ tái phát tại chỗ là 13% và tỷ lệ 
sống còn là 76,1% sau 3 năm, chúng tôi nhận 
thấy phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực 
tràng là hiệu quả, an toàn về mặt ung thư học, 
kết quả tốt về sống còn. Tuy nhiên để nhận định 
này được chính xác và có thể so sánh với nghiên 
cứu của các tác giả nước ngoài chúng ta cần 
những nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên, cần 
đánh giá giai đoạn trước và sau mổ chính xác 
hơn bằng những cận lâm sàng phù hợp, một vấn 
đề khó khăn trong thực trạng hầu hết bệnh nhân 
ung thư ở nước ta còn nghèo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baker R.P. et al.(2002). Does laparoscopic abdominoperineal 
resection of therectum compromise long-term survival?. Dis 
Colon Rectum, 45: 1481-1485. 
2. Braga M, Frasson M, Vignali A, Zuliani W, Capretti G, Di 
Carlo V (2007). Laparoscopic resection in rectal cancer 
patients: outcome and cost-benefit analysis. Dis Colon 
Rectum, 50: 464–471. 
3. Bretagnol F, Lelong B, Laurent C, et al (2005). The oncological 
safety of laparoscopic total mesorectal excision with sphincter 
preservation for rectal carcinoma. Surg Endosc, 19: 892–896 
4. Dresen RC, Peters EEM, Rutten HJT, et al (2009). Local 
recurrence in rectal cancer can be predicted by 
histopathological factors. EJSO, 35: 1071-1077 
5. Guillou PJ, Quirke P, Thorpe H, et al (2005). MRC CLASICC 
trial group. Short-term endpoints of conventional versus 
laparoscopic-assisted surgery in patients with colorectal 
cancer: multicentre, randomised controlled trial. Lancet, 365: 
1718–26. 
6. Heald RJ, Husband EM, Ryall RDH (1982). The mesorectum 
in rectal cancer surgery: the clue to pelvic recurrence? Br J 
Surg, 69: 613-616. 
7. Jackson TD, Kaplan GG, Arena G, Page JH, Rogers SO Jr 
(2007). Laparoscopic versus open resection for colorectal 
cancer: a metaanalysis of oncologic outcomes. J Am Coll Surg 
Mar, 204(3): 439–46. 
8. Jatzko GR, Jagoditsch M, Lisborg PH, et al (1999). Long-term 
results of radical surgery for rectal cancer: multivariate 
analysis of prognostic factors influencing survival and local 
recurrence. EJSO, 25: 284–291. 
9. Kuhry E, Schwenk W, Gaupset R, Romild U, Bonjer J (2008). 
Long-term outcome of laparoscopic surgery for colorectal 
cancer: a cochrane systematic review of randomised 
controlled trials. Cancer Treat Rev, 34(6): 498–504. 
10. Leroy J, Jamali F, Forbes L et al (2004). Laparoscopic total 
mesorectal excision (TME) for rectal cancer surgery: long-
termoutcomes. Surg Endosc, 18(2): 281–289. 
11. Martling A, Holm T, Bremmer S, et al (2003). Prognostic value 
of preoperative magnetic resonance imaging of the pelvis in 
rectal cancer. British Journal of Surgery, 90: 1422-1428. 
12. Nguyễn Anh Dũng, Đỗ Đình Công và cs (2005). Kết quả ban 
đầu của phẫu thuật nội soi trong điều trị ung thư đại trực 
tràng. Y học thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6. 
13. Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Trung Tín, Đỗ Minh Đại và cs 
(2006). Cắt toàn bộ mạc treo trực tràng bằng phẫu thuật nội 
soi trong điều trị ung thư trực tràng thấp. Y học Việt Nam, 319: 
131-138. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 60 
14. Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Hữu Thịnh (2008). Phẫu thuật 
cắt toàn bộ mạc treo trực tràng: đánh giá chức năng sau nối 
thấp tận –tận. Y Học TP. Hồ Chí Minh, 12(4): 291-294. 
15. Scheidbach H. et al. (2002). Laparoscopic abdominoperineal 
resection and anterior resection with curative intent for 
carcinoma of the rectum. Surg. Endosc, 16: 7-13. 
16. Ströhlein MA, Grützner KU, Jauch KW, Heiss MM (2008). 
Comparison of laparoscopic vs open access surgery in 
patients with rectal cancer: a prospec¬tive analysis. Dis Colon 
Rectum, 51(4): 385–91. 
17. Triệu Triều Dương và cs (2006). Kết quả điều trị ung thư trực 
tràng thấp bằng phẫu thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng 
(TME) và bảo tồn thần kinh tự trị vùng chậu. Y học Việt Nam, 
319: 93-99. 
18. Triệu Triều Dương, Nguyễn Cường Thịnh và cs (2004). Phẫu 
thuật nội soi trong điều trị ung thư đại trực tràng – Những 
kết quả bước đầu so với mổ mở. Y học Việt Nam, 304: 201-207. 
19. Wu J.S. et al. (1997). Early experience with laparoscopic 
abdominoperinealnresection. Surg Endosc, 11: 449-455.