Pierre Bourdieu và Anthony Giddens về song đề cấu trúc/hành động

Pierre Bourdieu (1930-2002) và Anthony Giddens (1920) là hai khuôn mặt sáng giá nhất của xã hội học Pháp và Anh trong thời đương đại, đã nỗ lực vượt qua song đề cấu trúc/hành động vốn đã chia rẽ các nhà xã hội học cổ điển. Bourdieu đưa ra lý thuyết cấu trúc thiết kế luận (structuralisme constructiviste) với các khái niệm mới như: tập tính, trường lực, vốn, cảm thức hành động. Giddens đưa ra lý thuyết cấu trúc hóa (structuration). Tuy nhiên, lý thuyết của Bourdieu bị phê phán vẫn còn xu hướng quyết định luận và lý thuyết của Giddens mang tính duy ý chí. Mặc dù còn một vài hạn chế, phải thừa nhận lý thuyết của hai nhà xã hội học này là những nỗ lực bài bản, hệ thống nhất cho đến hiện nay để vượt lên song đề nêu trên.

pdf13 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 844 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pierre Bourdieu và Anthony Giddens về song đề cấu trúc/hành động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/330275168 PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS VỀ SONG ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH ĐỘNG Article · January 2019 CITATIONS 0 READS 3 1 author: Some of the authors of this publication are also working on these related projects: Religion and modernity View project Sociology of Religion View project Nguyen Xuan Nghia Ho Chi Minh City Open University 59 PUBLICATIONS   29 CITATIONS    SEE PROFILE All content following this page was uploaded by Nguyen Xuan Nghia on 10 January 2019. The user has requested enhancement of the downloaded file. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 10(170)-2012 71 PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS VỀ SONG ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH ĐỘNG NGUYỄN XUÂN NGHĨA TÓM TẮT Pierre Bourdieu (1930-2002) và Anthony Giddens (1920) là hai khuôn mặt sáng giá nhất của xã hội học Pháp và Anh trong thời đương đại, đã nỗ lực vượt qua song đề cấu trúc/hành động vốn đã chia rẽ các nhà xã hội học cổ điển. Bourdieu đưa ra lý thuyết cấu trúc thiết kế luận (structuralisme constructiviste) với các khái niệm mới như: tập tính, trường lực, vốn, cảm thức hành động. Giddens đưa ra lý thuyết cấu trúc hóa (structuration). Tuy nhiên, lý thuyết của Bourdieu bị phê phán vẫn còn xu hướng quyết định luận và lý thuyết của Giddens mang tính duy ý chí. Mặc dù còn một vài hạn chế, phải thừa nhận lý thuyết của hai nhà xã hội học này là những nỗ lực bài bản, hệ thống nhất cho đến hiện nay để vượt lên song đề nêu trên. Có thể nói lịch sử của xã hội học là lịch sử của những đối thoại, tranh luận về các song đề (dilemma) lớn. Một trong những song đề ấy là sự đối lập nhấn mạnh cấu trúc xã hội hay nhấn mạnh hành động xã hội, thường biểu hiện qua những tranh luận giữa những tác giả theo lý thuyết duy khách thể hay duy chủ thể, mà trong truyền thống khoa học xã hội Pháp, được gọi là giữa thuyết tổng thể (holisme) hay cá thể (atomisme), trong khoa học xã hội Anh- Mỹ vẫn là cặp đối lập cấu trúc/hành động (structure/agency). 1. NHỮNG NỖ LỰC VƯỢT QUA SONG ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH ĐỘNG CỦA HAI NHÀ XÃ HỘI HỌC BOURDIEU VÀ GIDDENS Tuy nhiên, lịch sử xã hội học giữa bán thế kỷ XX trở về sau được đánh dấu bởi những nỗ lực của một số nhà lý thuyết muốn vượt qua song đề trên, như T. Parsons, A. Touraine, A. Giddens (Bùi Thế Cường, 2010, P. Berger (Trần Hữu Quang, 2011), E. Goffman (Nguyễn Xuân Nghĩa, 2012a)... Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cấu trúc và hành động, theo Muller, xã hội học đã cho thấy ba dòng tư tưởng lớn: các lý thuyết về hành động, các lý thuyết về các hệ thống và các lý thuyết về cấu trúc hóa – mà Muller gọi là con đường thứ ba. Trong dòng lý thuyết cuối này, Muller đã nêu lên hai khuôn mặt lớn của xã hội học đương đại là P. Bourdieu (1930-2002) và A. Giddens (1920-)(1), (Muller, 2006, tr. 49). Bourdieu đã đưa ra lý thuyết cấu trúc thiết kế luận (structuralisme constructiviste) và lý thuyết hành động (praxéologie) và Giddens đưa ra lý thuyết cấu trúc hóa (structuration KHOA HOÏC XAÕ HOÄI THEÁ GIÔÙI Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 72 theory), như là những nỗ lực nhằm vượt qua song đề nói trên vốn đã thực sự chia rẽ các lý thuyết xã hội học cổ điển. Giữa hai tác giả này có nhiều khái niệm, liên hệ chung, nhưng các khác biệt giữa họ cũng không kém phần sâu sắc. Bởi lẽ, khi nhấn mạnh vai trò của chủ thể hành động, Giddens thường bị phê phán là “duy tâm”, “duy ý chí” và ngược lại lý thuyết của Bourdieu bị phê phán là rơi vào quyết định luận hay quá nhấn mạnh đến cấu trúc. 1.1. Lý thuyết cấu trúc thiết kế luận của Bourdieu Có thể xem như phần lớn các công trình của Bourdieu là một nỗ lực vượt qua các đối lập đã chi phối các lý thuyết xã hội học (duy khách thể/duy chủ thể, vi mô/vĩ mô, tự do/quyết định luận; cấu trúc/thiết kế...), thể hiện trong khoa học xã hội Pháp những năm 1950-1960 là sự đối lập giữa thuyết hiện sinh của J. P. Sarte và thuyết cấu trúc của C. Levy-Strauss. Bourdieu vượt lên những đối lập trên bằng cách hình thành các khái niệm mới như: tập tính (habitus), trường lực (champ), vốn (capital), cảm thức hành động (sens pratique)... Để vượt qua lý thuyết cấu trúc vốn khẳng định sự qui phục của chủ thể trước quy tắc cơ cấu của xã hội, đồng thời cả lý thuyết thiết kế (constructivisme) - quan niệm xã hội là sản phẩm của các hành động của các cá nhân, ông đề nghị gọi lý thuyết của mình là “lý thuyết cấu trúc thiết kế luận” (sructuralisme constructiviste) hay là “lý thuyết thiết kế cấu trúc luận” (constructivisme structuraliste) (Bourdieu, 1987, tr. 147). Qua đó, ông muốn nói rằng xã hội được hình thành từ những cấu trúc mà những cấu trúc này được xây dựng, thiết kế bởi những chủ thể(2) - như quan điểm lý thuyết thiết kế - nhưng một khi đã hình thành các cấu trúc này lại chi phối hành động của các chủ thể - như quan điểm của lý thuyết cấu trúc. Để nối kết những đối lập trên, lý thuyết xã hội học của Bourdieu dựa trên những khái niệm chính là tập tính, trường lực, vốn và cảm thức hành động(3). 1.1.1. Tập tính: liên kết cấu trúc và hành động Do tính phức tạp của nó, Bourdieu đã đưa ra nhiều diễn tả khác nhau về khái niệm tập tính. Trước hết, Bourdieu cho thấy tập tính khác tập quán (habitude): “Tập tính, như điều này nói lên, là cái mà người ta đã sở đắc. Nhưng tại sao không nói là tập quán. Tập quán được lập tức xem như cái gì lặp đi lặp lại, máy móc, tự động và là cái tái sản xuất ra. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh ý tưởng tập tính là cái gì có sức mạnh sản sinh ra” (Bourdieu, 1980, tr. 134). Bourdieu làm rõ hơn nguyên tắc sản sinh (générateur) của habitus: “Tập tính đồng thời là [...] nguyên tắc sinh ra các hành động có thể phân loại cách khách quan và sinh ra hệ thống phân loại các hành động này. Chính trong tương quan của hai khả năng của tập tính – khả năng sản sinh các hành động và các phân loại và khả năng phân biệt và đánh giá các hành động và các sản phẩm ấy, mà hình thành xã hội được biểu trưng, có nghĩa là không gian các lối sống” (Bourdieu, 1979, tr. 190). Định nghĩa về tập tính quan trọng và tóm tắt nhất của Bourdieu: “Tập tính là cái cấu trúc cấu trúc hóa (structure structurante), có nghĩa là nó tổ chức các thực hành (pratiques), nhận thức về các thực hành, nhưng tập tính cũng là cấu trúc bị cấu trúc hóa (structure structurée): nó là nguyên tắc NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 73 phân loại các loại logic vốn tổ chức nhận thức về xã hội. Và nguyên tắc này tự chính nó là sự nhập tâm của sự phân chia thành các giai cấp xã hội” (Bourdieu, 1979, tr. 191). Lấy thí dụ, nhờ các quy tắc ngữ pháp đã học được trong quá trình xã hội hóa, ta có thể tạo ra vô số câu. Điều này tương tự các tâm thế của tập tính: chúng là các khung nhận thức và hành động cho phép cá nhân sản sinh ra vô số thực hành xã hội tương ứng với các tình huống phức tạp của xã hội. Hay nói cách khác nữa, “Nói đến tập tính là cho rằng cái gì là cá thể, và cả cái riêng tư, chủ quan là cái xã hội, là cái tập thể. Tập tính là tính chủ thể bị xã hội hóa” (Bourdieu, 1992, tr. 101). Bourdieu phân biệt tập tính của cá nhân và tập tính giai cấp. Những cá nhân sống trong cùng một nhóm, giai cấp xã hội, vì đã qua quá trình xã hội hóa giống nhau, nên có những tương đồng trong cách suy nghĩ, cảm nhận, hành động. Ngoài đặc tính phát sinh (générateur) và tính thống nhất (unificateur), Bourdieu còn nêu lên độ trễ (hystérésis) và tính chuyển vị (transposabilité) của tập tính. Có nghĩa là, trong nhiều trường hợp cá nhân vẫn giữ tập tính cũ mặc dù bối cảnh xã hội đã thay đổi. Và tập tính có thể chuyển vị từ một hoạt động này sang một hoạt động khác. Đó cũng là trọng tâm của tác phẩm Distinction (Sự khác biệt, 1979), qua đó ông muốn minh chứng giả thuyết toàn bộ ứng xử của chủ thề có liên kết với nhau theo một “kiểu” (style) chung. Nghiên cứu này cho thấy, ví dụ về tầng lớp công nhân, trong lãnh vực ăn uống, họ chọn những gì bổ dưỡng, tạo năng lượng; trong lãnh vực nghệ thuật, họ không muốn cái gì trừu tượng mà hiện thực; trong ăn mặc: bền, chắc Tất cả thực hành trên tạo ra một lối sống của công nhân, có đặc điểm, vì không dư dả về mặt kinh tế, nên bị chi phối bởi nguyên tắc của “cái gì cần thiết”, đã tạo ra những tâm thế đi tìm cái gì là hữu ích, là thiết yếu. Qua khái niệm tập tính, Bourdieu muốn nói đến mối liên kết giữa quá trình xã hội hóa và hành động của cá nhân. Tập tính như vậy là một tập hợp các cấu trúc tinh thần và các khung đã được nội tâm hóa, chúng chi phối cái mà cá nhân nhận thức, thấu hiểu, đánh giá và hành động trong xã hội. Tập hợp các khung này đã được sở đắc thông qua tương tác của cá nhân với xã hội và đặc biệt với các trường lực nơi cá nhân định vị. Tập tính là sản phẩm của một dòng đời cụ thể của cá nhân qua những vị trí, vai trò mà cá nhân đã đóng, qua quá trình xã hội hóa hay lịch sử cụ thể mà cá nhân đã trải nghiệm. Trước những tình huống gặp phải, cá nhân khai triển những tâm thế này và tập tính hành động như là sự khắc sâu của các cấu trúc khách quan vào các kinh nghiệm tinh thần, chủ quan của các chủ thể. Tập tính là sản phẩm của lịch sử, nhưng nó không phải là định mệnh, bởi lẽ nó bị hiệu chỉnh bởi lịch sử và các trường lực mà cá nhân tham dự vào: tập tính sản sinh ra những sản phẩm khác nhau tùy trường lực (Bourdieu, 1992, tr. 108-109). Tóm lại, “Người ta có thể hiểu rằng việc trở về cầu cứu đến khái niệm tập tính... là để thoát khỏi việc chọn lựa hoặc là lý thuyết cấu trúc không có chủ thể hoặc là triết lý về chủ thể” (Bourdieu, 1987, tr. 20). NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 74 1.1.2. Trường lực: không phải là những thiết chế, cấu trúc tĩnh mà là động thái của các không gian xã hội Xã hội học cổ điển quan niệm xã hội được hình thành từ những thiết chế như gia đình, chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, tôn giáo... Các thiết chế này như là những cấu trúc có lực cưỡng ép lên ứng xử của cá nhân. Bằng khái niệm trường lực, Bourdieu phân tích thực tại xã hội bằng một quan điểm động hơn. Trong các tài liệu bằng tiếng Việt bàn đến khái niệm trường lực của Bourdieu, bài viết của Nguyễn Phương Ngọc (2010, tr. 249- 268) áp dụng khái niệm này để tìm hiểu lãnh vực văn học nghệ thuật, và bài của Nguyễn Xuân Nghĩa (2008, tr. 50-59) trình bày khái niệm này trong lãnh vực nghiên cứu xã hội học tôn giáo. Bourdieu quan niệm xã hội như là nơi giao thoa của nhiều trường lực - không nên hiểu theo nghĩa tĩnh của khái niệm lãnh vực mà nên hình dung như là những từ trường trong vật lý - bao gồm trường lực chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo... Mỗi trường lực được tổ chức theo một logic riêng được xác định bởi những mục đích, lợi ích, những quân chủ bài, luật chơi riêng. Ví như mục đích của trường lực chính trị là quyền lực, của trường lực kinh tế là lợi nhuận... Tương tác giữa các cá nhân trong một trường lực bị chi phối bởi vị trí cá nhân nắm giữ, bởi các loại vốn (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...), bởi nguồn lực, bởi sách lược riêng của các tác nhân và họ đấu tranh với nhau để gia tăng các loại vốn – từ đó có được quyền lực hợp thức, nắm bạo lực biểu trưng. Ví như, Bourdieu trong tác phẩm Sự thống trị của nam giới (1990), cho thấy, trường lực tôn giáo - qua các tôn giáo lớn như Phật giáo, Kitô giáo, Islam giáo... đều dựa trên quy tắc lấy nam giới làm trọng tâm (principe androcentrique), dẫn đến việc hợp thức hóa sự thống trị của nam giới trên nữ giới (Bourdieu, 1990). Như vậy, trường lực là một không gian xã hội bao gồm nhiều vị trí mà những người nắm giữ hướng về cùng những lợi ích. Nhưng cá nhân có lợi ích nhiều ít khác nhau là tùy vị trí xã hội. Mỗi trường lực có qui luật riêng, nhưng đồng thời có một số qui luật chung, có sự đấu tranh giữa những tác nhân cũ và mới với những sách lược khác nhau (ví như giữa giáo hội (church) và giáo phái (sect), theo phân loại của M. Weber), chấp nhận cùng những mục đích và tất cả đều muốn sống còn. Sự vận hành của trường lực không chỉ tùy thuộc tương quan giữa những lực bên trong mà với cả các trường lực bên ngoài. Các trường lực vừa có tính tự lập vừa cộng tác, cạnh tranh, thỏa hiệp với nhau. Ví như trường hợp trường lực chính trị và tôn giáo nói chung đã cho thấy, khi thì hợp thức hóa nhau như trong các xã hội cổ truyền, khi thì tách ra qua quá trình phân biệt hóa định chế trong xã hội hiện đại, khi thì thỏa hiệp ngấm ngầm hay bằng các thỏa ước công khai - như các concordats (thỏa ước thời Napoléon ở Pháp...). 1.1.3. Cảm thức hành động (sens pratique) Trường lực và tập tính có quan hệ hai chiều, trường lực chỉ có thể tồn tại nếu các tác nhân xã hội có được tập tính cần thiết để duy trì trường lực và ngược lại khi tham gia vào trường lực, các tác nhân thấm nhập vào tập tính của mình những quy tắc NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 75 riêng cho phép cấu thành trường lực. Như vậy tập tính tạo điều kiện tồn tại cho các cấu trúc của quyền lực và do đó, trường lực làm trung giới giữa tập tính và hành động. Bourdieu đã tóm tắt tương quan này bằng công thức (Bourdieu, 1979, tr. 112): [(tập tính) (vốn)] + trường lực = hành động. Lấy thí dụ trường hợp cầu thủ bóng đá. Trong sân bóng, anh ta tự động biết phải theo bóng như thế nào bởi lẽ “anh ta cảm nhận được trò chơi”, do những kinh nghiệm có được trong quá khứ (tập tính), do biết được thể lực, các kỹ năng tác chiến (vốn) của mình như thế nào, do biết được các quy tắc của trò chơi bóng đá (trường lực). Và như vậy, ta hiểu và giải thích được tại sao anh ta đã ứng xử như vậy (hành động) trong trận đấu bóng. Cũng vậy, các tác nhân trong cuộc sống của mình trong xã hội sẽ hành động ra sao là nhờ vào việc phát triển - thông qua tập tính - các “sách lược” một cách vô thức để thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống: “Quy tắc thực tế của các sách lược là cảm thức hành động” (Bourdieu, 1979). Cảm thức này nằm chủ yếu ở việc làm chủ hành động, hiểu được cái logic, cái cần thiết nội tại của trò chơi. Nó hình thành một cách vô thức và khó diễn đạt bằng lời, là do đã trải nghiệm cuộc chơi. Với khái niệm cảm thức hành động, xem ra Bourdieu trở lại với lý thuyết chủ thể duy lý (acteur rationel) - một lý thuyết thống trị trong kinh tế học - khi ông nhấn mạnh tập tính dựa trên những sách lược qua đó chủ thể nhắm đến đạt nhiều lợi ích nhất(4), tăng các loại vốn trong trường lực mình tham gia. Tuy nhiên Bourdieu có một khác biệt sâu sắc với lý thuyết chủ thể duy lý khi ông chứng minh các chủ thể không phải luôn luôn tính toán một cách ý thức nhằm tối đa hóa lợi ích của mình theo những tiêu chí rõ ràng. Ông phê bình gay gắt lý thuyết này khi bác bỏ ý kiến cho rằng chủ thể là những nhà chiến lược tỉ mỉ và rất ý thức trong việc đeo đuổi những lợi ích đã được cân nhắc kỹ. Ngược lại, theo ông, các tác nhân hành động từ những tâm thế và kỹ năng đã thấm nhập trong cơ thể họ, những tâm thế và kỹ năng tạo nên một cảm thức trong cuộc chơi, nó không phải là một phản tư ý thức. Bourdieu đã viết: “Tập tính chứa những giải pháp của các nghịch lý, của cảm thức khách quan không có ý hướng chủ quan... ” (Bourdieu, 1987, tr. 77). Tóm lại, cái cảm thức hành động chỉ có thể có khi tác nhân đối diện với một trường lực quen thuộc với mình, nó tương ứng với trường lực trong đó cá nhân đã được xã hội hóa, đã nhập tâm những cấu trúc cấu tạo nên tập tính của nó (Bourdieu, Wikipédia). 1.2. Lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens Giddens khởi đầu lý thuyết cấu trúc hóa của mình bằng cách phê bình hai dòng lý thuyết lớn trong xã hội học cổ điển là duy khách thể và duy chủ thể mà ông gọi là hai “chủ nghĩa đế quốc”: chủ nghĩa đế quốc của khách thể và chủ nghĩa đế quốc của chủ thể. Theo ông, thuyết duy khách thể không thấy cá nhân là những tác nhân có suy nghĩ và có ảnh hưởng trên các cấu trúc và ngược lại thuyết duy chủ thể không giải thích được các cơ cấu được hình thành như thế nào và tạo điều kiện tác động lên hành động của cá nhân. Giddens muốn vượt lên và xem hai thuyết như là hai cực bổ sung cho nhau, hai mặt của đồng tiền. NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 76 Để xây dựng lý thuyết cấu trúc hóa, Giddens đào sâu lại các khái niệm tác nhân, cấu trúc, hệ thống xã hội, thực hành xã hội (social practices)... Thực hành xã hội Như thuật ngữ cấu trúc hóa cho thấy, Giddens không đặt trọng tâm vào những thực tại tĩnh mà vào một quá trình động. Đây là quá trình mà hành động của các cá nhân cấu trúc các hệ thống xã hội và mặt khác lại bị cấu trúc hóa bởi những hệ thống này. Đây là một vòng tròn liên tục và không có điểm khởi đầu hay đúng hơn là vòng xoắn ốc lập đi lập lại: các chủ thể dựa trên các cấu trúc để hành động và đồng thời tái tạo lại cấu trúc - có thể có thay đổi - và nó tạo điều kiện mới cho hành động trong những chu kỳ tiếp theo. Giddens dùng thuật ngữ “thực hành xã hội” để nói đến quá trình cấu trúc hóa này. Các thực hành này không phải là những ứng xử bộc phát mà là những hoạt động liên tục, lặp lại, chúng hình thành những điểm nối kết giữa chủ thể và cấu trúc. Hệ thống xã hội và cấu trúc Trong quá trình cấu trúc hóa, Giddens phân biệt rõ hai khái niệm hệ thống xã hội và cấu trúc. Khi phê bình thuyết chức năng, Giddens cho thấy khái niệm cấu trúc thường làm liên tưởng đến khung sườn của một công trình xây dựng hay đến bộ xương của thân thể. Giddens không bỏ cái lối nhìn này mà ông liên kết với khái niệm hệ thống xã hội, được hiểu như là một tập hợp tương tác, hoạt động định vị trong không gian và thời gian (Giddens, 1984, tr. 25). Có thể phân biệt nhiều loại hệ thống xã hội: ở cấp độ lớn nhất là các xã hội, kế tiếp các tổ chức xã hội, các nhóm xã hội - nhỏ hơn và mong manh hơn - và các phong trào xã hội... (Giddens, 1990, tr. 302-303). Khái niệm cấu trúc trừu tượng hơn. Để phát triển khái niệm này Giddens đã chịu ảnh hưởng khái niệm Saussure đã sử dụng, là “cái gì nằm ngoài không gian và thời gian” (Giddens, 1979, tr. 66), nó không phải là đối tượng của quan sát trực tiếp mà hình thành “một quy tắc ở chiều sâu mà ta phải suy diễn từ những biểu hiện bề mặt” (Giddens, 1984, tr. 65), hay nói cách khác cấu trúc như là những vết tích của ký ức... nhờ đó chủ thể định hướng ứng xử của mình (Giddens, 1984, tr. 66) và khác với quan niệm thông thường, nó là bên trong chứ không phải bên ngoài hành động: “Trong cách dụng ngữ của tôi, cấu trúc là cái gì đem lại hình thức và định dạng cho đời sống xã hội, nhưng chính nó không phải là hình thức và định dạng ấy. Cũng không nên hiểu “đem lại” theo nghĩa chủ động vì cấu trúc chỉ có thể tồn tại trong và thông qua hoạt động của các tác nhân” (Giddens, 1989, tr. 256). Tác động của cấu trúc được Giddens diễn tả qua cụm từ “tính hai mặt của cấu trúc” (structure duality), nhằm vượt lên song đề nêu trên. Một mặt cấu trúc tác động lên chủ thể bằng cách ép buộc các thực hành xã hội đi vào quy tắc (rules). Ví như, trong xã hội hiện đại, ta sinh ra và đã có hệ thống tiền tệ, mà ta khó có thể không sử dụng trong các hoạt động trao đổi hàng ngày (Giddens, 2009, tr. 89). Nhưng mặt khác, cấu trúc cho phép chủ thể hành động thông qua những nguồn lực (resources), qua đó chủ thể sản xuất và tái sản xuất các hệ thống xã hội. Như vậy cấu trúc hình NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS 77 thành từ những quy tắc
Tài liệu liên quan