Pierre Bourdieu (1930-2002) và Anthony
Giddens (1920) là hai khuôn mặt sáng giá
nhất của xã hội học Pháp và Anh trong thời
đương đại, đã nỗ lực vượt qua song đề cấu
trúc/hành động vốn đã chia rẽ các nhà xã
hội học cổ điển. Bourdieu đưa ra lý thuyết
cấu trúc thiết kế luận (structuralisme
constructiviste) với các khái niệm mới như:
tập tính, trường lực, vốn, cảm thức hành
động. Giddens đưa ra lý thuyết cấu trúc
hóa (structuration). Tuy nhiên, lý thuyết
của Bourdieu bị phê phán vẫn còn xu
hướng quyết định luận và lý thuyết của
Giddens mang tính duy ý chí. Mặc dù còn
một vài hạn chế, phải thừa nhận lý thuyết
của hai nhà xã hội học này là những nỗ lực
bài bản, hệ thống nhất cho đến hiện nay
để vượt lên song đề nêu trên.
13 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 844 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pierre Bourdieu và Anthony Giddens về song đề cấu trúc/hành động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/330275168
PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS VỀ SONG ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH
ĐỘNG
Article · January 2019
CITATIONS
0
READS
3
1 author:
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
Religion and modernity View project
Sociology of Religion View project
Nguyen Xuan Nghia
Ho Chi Minh City Open University
59 PUBLICATIONS 29 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Nguyen Xuan Nghia on 10 January 2019.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 10(170)-2012
71
PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
VỀ SONG ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH ĐỘNG
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
TÓM TẮT
Pierre Bourdieu (1930-2002) và Anthony
Giddens (1920) là hai khuôn mặt sáng giá
nhất của xã hội học Pháp và Anh trong thời
đương đại, đã nỗ lực vượt qua song đề cấu
trúc/hành động vốn đã chia rẽ các nhà xã
hội học cổ điển. Bourdieu đưa ra lý thuyết
cấu trúc thiết kế luận (structuralisme
constructiviste) với các khái niệm mới như:
tập tính, trường lực, vốn, cảm thức hành
động. Giddens đưa ra lý thuyết cấu trúc
hóa (structuration). Tuy nhiên, lý thuyết
của Bourdieu bị phê phán vẫn còn xu
hướng quyết định luận và lý thuyết của
Giddens mang tính duy ý chí. Mặc dù còn
một vài hạn chế, phải thừa nhận lý thuyết
của hai nhà xã hội học này là những nỗ lực
bài bản, hệ thống nhất cho đến hiện nay
để vượt lên song đề nêu trên.
Có thể nói lịch sử của xã hội học là lịch sử
của những đối thoại, tranh luận về các
song đề (dilemma) lớn. Một trong những
song đề ấy là sự đối lập nhấn mạnh cấu
trúc xã hội hay nhấn mạnh hành động xã
hội, thường biểu hiện qua những tranh
luận giữa những tác giả theo lý thuyết duy
khách thể hay duy chủ thể, mà trong
truyền thống khoa học xã hội Pháp, được
gọi là giữa thuyết tổng thể (holisme) hay cá
thể (atomisme), trong khoa học xã hội Anh-
Mỹ vẫn là cặp đối lập cấu trúc/hành động
(structure/agency).
1. NHỮNG NỖ LỰC VƯỢT QUA SONG
ĐỀ CẤU TRÚC/HÀNH ĐỘNG CỦA HAI NHÀ
XÃ HỘI HỌC BOURDIEU VÀ GIDDENS
Tuy nhiên, lịch sử xã hội học giữa bán thế
kỷ XX trở về sau được đánh dấu bởi
những nỗ lực của một số nhà lý thuyết
muốn vượt qua song đề trên, như T.
Parsons, A. Touraine, A. Giddens (Bùi Thế
Cường, 2010, P. Berger (Trần Hữu Quang,
2011), E. Goffman (Nguyễn Xuân Nghĩa,
2012a)...
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cấu
trúc và hành động, theo Muller, xã hội học
đã cho thấy ba dòng tư tưởng lớn: các lý
thuyết về hành động, các lý thuyết về các
hệ thống và các lý thuyết về cấu trúc hóa –
mà Muller gọi là con đường thứ ba. Trong
dòng lý thuyết cuối này, Muller đã nêu lên
hai khuôn mặt lớn của xã hội học đương
đại là P. Bourdieu (1930-2002) và A. Giddens
(1920-)(1), (Muller, 2006, tr. 49). Bourdieu
đã đưa ra lý thuyết cấu trúc thiết kế luận
(structuralisme constructiviste) và lý thuyết
hành động (praxéologie) và Giddens đưa
ra lý thuyết cấu trúc hóa (structuration
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI THEÁ GIÔÙI
Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học
Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
72
theory), như là những nỗ lực nhằm vượt
qua song đề nói trên vốn đã thực sự chia
rẽ các lý thuyết xã hội học cổ điển.
Giữa hai tác giả này có nhiều khái niệm,
liên hệ chung, nhưng các khác biệt giữa họ
cũng không kém phần sâu sắc. Bởi lẽ, khi
nhấn mạnh vai trò của chủ thể hành động,
Giddens thường bị phê phán là “duy tâm”,
“duy ý chí” và ngược lại lý thuyết của
Bourdieu bị phê phán là rơi vào quyết định
luận hay quá nhấn mạnh đến cấu trúc.
1.1. Lý thuyết cấu trúc thiết kế luận của
Bourdieu
Có thể xem như phần lớn các công trình
của Bourdieu là một nỗ lực vượt qua các
đối lập đã chi phối các lý thuyết xã hội học
(duy khách thể/duy chủ thể, vi mô/vĩ mô, tự
do/quyết định luận; cấu trúc/thiết kế...), thể
hiện trong khoa học xã hội Pháp những
năm 1950-1960 là sự đối lập giữa thuyết
hiện sinh của J. P. Sarte và thuyết cấu trúc
của C. Levy-Strauss. Bourdieu vượt lên
những đối lập trên bằng cách hình thành
các khái niệm mới như: tập tính (habitus),
trường lực (champ), vốn (capital), cảm
thức hành động (sens pratique)... Để vượt
qua lý thuyết cấu trúc vốn khẳng định sự
qui phục của chủ thể trước quy tắc cơ cấu
của xã hội, đồng thời cả lý thuyết thiết kế
(constructivisme) - quan niệm xã hội là sản
phẩm của các hành động của các cá nhân,
ông đề nghị gọi lý thuyết của mình là “lý
thuyết cấu trúc thiết kế luận” (sructuralisme
constructiviste) hay là “lý thuyết thiết kế
cấu trúc luận” (constructivisme structuraliste)
(Bourdieu, 1987, tr. 147). Qua đó, ông
muốn nói rằng xã hội được hình thành từ
những cấu trúc mà những cấu trúc này
được xây dựng, thiết kế bởi những chủ
thể(2) - như quan điểm lý thuyết thiết kế -
nhưng một khi đã hình thành các cấu trúc
này lại chi phối hành động của các chủ thể -
như quan điểm của lý thuyết cấu trúc. Để
nối kết những đối lập trên, lý thuyết xã hội
học của Bourdieu dựa trên những khái
niệm chính là tập tính, trường lực, vốn và
cảm thức hành động(3).
1.1.1. Tập tính: liên kết cấu trúc và hành động
Do tính phức tạp của nó, Bourdieu đã đưa
ra nhiều diễn tả khác nhau về khái niệm
tập tính. Trước hết, Bourdieu cho thấy tập
tính khác tập quán (habitude): “Tập tính,
như điều này nói lên, là cái mà người ta đã
sở đắc. Nhưng tại sao không nói là tập
quán. Tập quán được lập tức xem như cái
gì lặp đi lặp lại, máy móc, tự động và là cái
tái sản xuất ra. Nhưng tôi muốn nhấn
mạnh ý tưởng tập tính là cái gì có sức
mạnh sản sinh ra” (Bourdieu, 1980, tr. 134).
Bourdieu làm rõ hơn nguyên tắc sản sinh
(générateur) của habitus: “Tập tính đồng
thời là [...] nguyên tắc sinh ra các hành
động có thể phân loại cách khách quan và
sinh ra hệ thống phân loại các hành động
này. Chính trong tương quan của hai khả
năng của tập tính – khả năng sản sinh các
hành động và các phân loại và khả năng
phân biệt và đánh giá các hành động và
các sản phẩm ấy, mà hình thành xã hội
được biểu trưng, có nghĩa là không gian
các lối sống” (Bourdieu, 1979, tr. 190).
Định nghĩa về tập tính quan trọng và tóm
tắt nhất của Bourdieu: “Tập tính là cái cấu
trúc cấu trúc hóa (structure structurante),
có nghĩa là nó tổ chức các thực hành
(pratiques), nhận thức về các thực hành,
nhưng tập tính cũng là cấu trúc bị cấu trúc
hóa (structure structurée): nó là nguyên tắc
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
73
phân loại các loại logic vốn tổ chức nhận
thức về xã hội. Và nguyên tắc này tự chính
nó là sự nhập tâm của sự phân chia thành
các giai cấp xã hội” (Bourdieu, 1979, tr.
191). Lấy thí dụ, nhờ các quy tắc ngữ pháp
đã học được trong quá trình xã hội hóa, ta
có thể tạo ra vô số câu. Điều này tương tự
các tâm thế của tập tính: chúng là các
khung nhận thức và hành động cho phép
cá nhân sản sinh ra vô số thực hành xã hội
tương ứng với các tình huống phức tạp
của xã hội.
Hay nói cách khác nữa, “Nói đến tập tính
là cho rằng cái gì là cá thể, và cả cái riêng
tư, chủ quan là cái xã hội, là cái tập thể.
Tập tính là tính chủ thể bị xã hội hóa”
(Bourdieu, 1992, tr. 101). Bourdieu phân
biệt tập tính của cá nhân và tập tính giai
cấp. Những cá nhân sống trong cùng một
nhóm, giai cấp xã hội, vì đã qua quá trình
xã hội hóa giống nhau, nên có những
tương đồng trong cách suy nghĩ, cảm nhận,
hành động.
Ngoài đặc tính phát sinh (générateur) và
tính thống nhất (unificateur), Bourdieu còn
nêu lên độ trễ (hystérésis) và tính chuyển
vị (transposabilité) của tập tính. Có nghĩa
là, trong nhiều trường hợp cá nhân vẫn giữ
tập tính cũ mặc dù bối cảnh xã hội đã thay
đổi. Và tập tính có thể chuyển vị từ một
hoạt động này sang một hoạt động khác.
Đó cũng là trọng tâm của tác phẩm
Distinction (Sự khác biệt, 1979), qua đó
ông muốn minh chứng giả thuyết toàn bộ
ứng xử của chủ thề có liên kết với nhau
theo một “kiểu” (style) chung. Nghiên cứu
này cho thấy, ví dụ về tầng lớp công nhân,
trong lãnh vực ăn uống, họ chọn những gì
bổ dưỡng, tạo năng lượng; trong lãnh vực
nghệ thuật, họ không muốn cái gì trừu
tượng mà hiện thực; trong ăn mặc: bền,
chắc Tất cả thực hành trên tạo ra một lối
sống của công nhân, có đặc điểm, vì
không dư dả về mặt kinh tế, nên bị chi phối
bởi nguyên tắc của “cái gì cần thiết”, đã
tạo ra những tâm thế đi tìm cái gì là hữu
ích, là thiết yếu. Qua khái niệm tập tính,
Bourdieu muốn nói đến mối liên kết giữa
quá trình xã hội hóa và hành động của cá
nhân.
Tập tính như vậy là một tập hợp các cấu
trúc tinh thần và các khung đã được nội
tâm hóa, chúng chi phối cái mà cá nhân
nhận thức, thấu hiểu, đánh giá và hành
động trong xã hội. Tập hợp các khung này
đã được sở đắc thông qua tương tác của
cá nhân với xã hội và đặc biệt với các
trường lực nơi cá nhân định vị. Tập tính là
sản phẩm của một dòng đời cụ thể của cá
nhân qua những vị trí, vai trò mà cá nhân
đã đóng, qua quá trình xã hội hóa hay lịch
sử cụ thể mà cá nhân đã trải nghiệm.
Trước những tình huống gặp phải, cá nhân
khai triển những tâm thế này và tập tính
hành động như là sự khắc sâu của các cấu
trúc khách quan vào các kinh nghiệm tinh
thần, chủ quan của các chủ thể. Tập tính là
sản phẩm của lịch sử, nhưng nó không
phải là định mệnh, bởi lẽ nó bị hiệu chỉnh
bởi lịch sử và các trường lực mà cá nhân
tham dự vào: tập tính sản sinh ra những
sản phẩm khác nhau tùy trường lực
(Bourdieu, 1992, tr. 108-109).
Tóm lại, “Người ta có thể hiểu rằng việc trở
về cầu cứu đến khái niệm tập tính... là để
thoát khỏi việc chọn lựa hoặc là lý thuyết
cấu trúc không có chủ thể hoặc là triết lý
về chủ thể” (Bourdieu, 1987, tr. 20).
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
74
1.1.2. Trường lực: không phải là những
thiết chế, cấu trúc tĩnh mà là động thái của
các không gian xã hội
Xã hội học cổ điển quan niệm xã hội được
hình thành từ những thiết chế như gia đình,
chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, tôn
giáo... Các thiết chế này như là những cấu
trúc có lực cưỡng ép lên ứng xử của cá
nhân. Bằng khái niệm trường lực,
Bourdieu phân tích thực tại xã hội bằng
một quan điểm động hơn.
Trong các tài liệu bằng tiếng Việt bàn đến
khái niệm trường lực của Bourdieu, bài viết
của Nguyễn Phương Ngọc (2010, tr. 249-
268) áp dụng khái niệm này để tìm hiểu
lãnh vực văn học nghệ thuật, và bài của
Nguyễn Xuân Nghĩa (2008, tr. 50-59) trình
bày khái niệm này trong lãnh vực nghiên
cứu xã hội học tôn giáo.
Bourdieu quan niệm xã hội như là nơi giao
thoa của nhiều trường lực - không nên
hiểu theo nghĩa tĩnh của khái niệm lãnh
vực mà nên hình dung như là những từ
trường trong vật lý - bao gồm trường lực
chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tôn
giáo... Mỗi trường lực được tổ chức theo
một logic riêng được xác định bởi những
mục đích, lợi ích, những quân chủ bài, luật
chơi riêng. Ví như mục đích của trường
lực chính trị là quyền lực, của trường lực
kinh tế là lợi nhuận... Tương tác giữa các
cá nhân trong một trường lực bị chi phối
bởi vị trí cá nhân nắm giữ, bởi các loại vốn
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...), bởi
nguồn lực, bởi sách lược riêng của các tác
nhân và họ đấu tranh với nhau để gia tăng
các loại vốn – từ đó có được quyền lực
hợp thức, nắm bạo lực biểu trưng. Ví như,
Bourdieu trong tác phẩm Sự thống trị của
nam giới (1990), cho thấy, trường lực tôn
giáo - qua các tôn giáo lớn như Phật giáo,
Kitô giáo, Islam giáo... đều dựa trên quy
tắc lấy nam giới làm trọng tâm (principe
androcentrique), dẫn đến việc hợp thức
hóa sự thống trị của nam giới trên nữ giới
(Bourdieu, 1990).
Như vậy, trường lực là một không gian xã
hội bao gồm nhiều vị trí mà những người
nắm giữ hướng về cùng những lợi ích.
Nhưng cá nhân có lợi ích nhiều ít khác
nhau là tùy vị trí xã hội. Mỗi trường lực có
qui luật riêng, nhưng đồng thời có một số
qui luật chung, có sự đấu tranh giữa
những tác nhân cũ và mới với những sách
lược khác nhau (ví như giữa giáo hội
(church) và giáo phái (sect), theo phân loại
của M. Weber), chấp nhận cùng những
mục đích và tất cả đều muốn sống còn. Sự
vận hành của trường lực không chỉ tùy
thuộc tương quan giữa những lực bên
trong mà với cả các trường lực bên ngoài.
Các trường lực vừa có tính tự lập vừa
cộng tác, cạnh tranh, thỏa hiệp với nhau.
Ví như trường hợp trường lực chính trị và
tôn giáo nói chung đã cho thấy, khi thì hợp
thức hóa nhau như trong các xã hội cổ
truyền, khi thì tách ra qua quá trình phân
biệt hóa định chế trong xã hội hiện đại, khi
thì thỏa hiệp ngấm ngầm hay bằng các
thỏa ước công khai - như các concordats
(thỏa ước thời Napoléon ở Pháp...).
1.1.3. Cảm thức hành động (sens pratique)
Trường lực và tập tính có quan hệ hai
chiều, trường lực chỉ có thể tồn tại nếu các
tác nhân xã hội có được tập tính cần thiết
để duy trì trường lực và ngược lại khi tham
gia vào trường lực, các tác nhân thấm
nhập vào tập tính của mình những quy tắc
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
75
riêng cho phép cấu thành trường lực. Như
vậy tập tính tạo điều kiện tồn tại cho các
cấu trúc của quyền lực và do đó, trường
lực làm trung giới giữa tập tính và hành
động. Bourdieu đã tóm tắt tương quan này
bằng công thức (Bourdieu, 1979, tr. 112):
[(tập tính) (vốn)] + trường lực = hành động.
Lấy thí dụ trường hợp cầu thủ bóng đá.
Trong sân bóng, anh ta tự động biết phải
theo bóng như thế nào bởi lẽ “anh ta cảm
nhận được trò chơi”, do những kinh
nghiệm có được trong quá khứ (tập tính),
do biết được thể lực, các kỹ năng tác chiến
(vốn) của mình như thế nào, do biết được
các quy tắc của trò chơi bóng đá (trường
lực). Và như vậy, ta hiểu và giải thích
được tại sao anh ta đã ứng xử như vậy
(hành động) trong trận đấu bóng.
Cũng vậy, các tác nhân trong cuộc sống
của mình trong xã hội sẽ hành động ra sao
là nhờ vào việc phát triển - thông qua tập
tính - các “sách lược” một cách vô thức để
thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống:
“Quy tắc thực tế của các sách lược là cảm
thức hành động” (Bourdieu, 1979). Cảm
thức này nằm chủ yếu ở việc làm chủ hành
động, hiểu được cái logic, cái cần thiết nội
tại của trò chơi. Nó hình thành một cách vô
thức và khó diễn đạt bằng lời, là do đã trải
nghiệm cuộc chơi.
Với khái niệm cảm thức hành động, xem ra
Bourdieu trở lại với lý thuyết chủ thể duy lý
(acteur rationel) - một lý thuyết thống trị
trong kinh tế học - khi ông nhấn mạnh tập
tính dựa trên những sách lược qua đó chủ
thể nhắm đến đạt nhiều lợi ích nhất(4), tăng
các loại vốn trong trường lực mình tham
gia. Tuy nhiên Bourdieu có một khác biệt
sâu sắc với lý thuyết chủ thể duy lý khi ông
chứng minh các chủ thể không phải luôn
luôn tính toán một cách ý thức nhằm tối đa
hóa lợi ích của mình theo những tiêu chí rõ
ràng. Ông phê bình gay gắt lý thuyết này
khi bác bỏ ý kiến cho rằng chủ thể là
những nhà chiến lược tỉ mỉ và rất ý thức
trong việc đeo đuổi những lợi ích đã được
cân nhắc kỹ. Ngược lại, theo ông, các tác
nhân hành động từ những tâm thế và kỹ
năng đã thấm nhập trong cơ thể họ, những
tâm thế và kỹ năng tạo nên một cảm thức
trong cuộc chơi, nó không phải là một
phản tư ý thức. Bourdieu đã viết: “Tập tính
chứa những giải pháp của các nghịch lý,
của cảm thức khách quan không có ý
hướng chủ quan... ” (Bourdieu, 1987, tr. 77).
Tóm lại, cái cảm thức hành động chỉ có thể
có khi tác nhân đối diện với một trường lực
quen thuộc với mình, nó tương ứng với
trường lực trong đó cá nhân đã được xã
hội hóa, đã nhập tâm những cấu trúc cấu
tạo nên tập tính của nó (Bourdieu, Wikipédia).
1.2. Lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens
Giddens khởi đầu lý thuyết cấu trúc hóa
của mình bằng cách phê bình hai dòng lý
thuyết lớn trong xã hội học cổ điển là duy
khách thể và duy chủ thể mà ông gọi là hai
“chủ nghĩa đế quốc”: chủ nghĩa đế quốc
của khách thể và chủ nghĩa đế quốc của
chủ thể. Theo ông, thuyết duy khách thể
không thấy cá nhân là những tác nhân có
suy nghĩ và có ảnh hưởng trên các cấu
trúc và ngược lại thuyết duy chủ thể không
giải thích được các cơ cấu được hình
thành như thế nào và tạo điều kiện tác
động lên hành động của cá nhân. Giddens
muốn vượt lên và xem hai thuyết như là
hai cực bổ sung cho nhau, hai mặt của
đồng tiền.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
76
Để xây dựng lý thuyết cấu trúc hóa,
Giddens đào sâu lại các khái niệm tác
nhân, cấu trúc, hệ thống xã hội, thực hành
xã hội (social practices)...
Thực hành xã hội
Như thuật ngữ cấu trúc hóa cho thấy,
Giddens không đặt trọng tâm vào những
thực tại tĩnh mà vào một quá trình động.
Đây là quá trình mà hành động của các cá
nhân cấu trúc các hệ thống xã hội và mặt
khác lại bị cấu trúc hóa bởi những hệ
thống này. Đây là một vòng tròn liên tục và
không có điểm khởi đầu hay đúng hơn là
vòng xoắn ốc lập đi lập lại: các chủ thể
dựa trên các cấu trúc để hành động và
đồng thời tái tạo lại cấu trúc - có thể có
thay đổi - và nó tạo điều kiện mới cho hành
động trong những chu kỳ tiếp theo.
Giddens dùng thuật ngữ “thực hành xã hội”
để nói đến quá trình cấu trúc hóa này. Các
thực hành này không phải là những ứng
xử bộc phát mà là những hoạt động liên
tục, lặp lại, chúng hình thành những điểm
nối kết giữa chủ thể và cấu trúc.
Hệ thống xã hội và cấu trúc
Trong quá trình cấu trúc hóa, Giddens
phân biệt rõ hai khái niệm hệ thống xã hội
và cấu trúc. Khi phê bình thuyết chức năng,
Giddens cho thấy khái niệm cấu trúc
thường làm liên tưởng đến khung sườn
của một công trình xây dựng hay đến bộ
xương của thân thể. Giddens không bỏ cái
lối nhìn này mà ông liên kết với khái niệm
hệ thống xã hội, được hiểu như là một tập
hợp tương tác, hoạt động định vị trong
không gian và thời gian (Giddens, 1984, tr.
25). Có thể phân biệt nhiều loại hệ thống
xã hội: ở cấp độ lớn nhất là các xã hội, kế
tiếp các tổ chức xã hội, các nhóm xã hội -
nhỏ hơn và mong manh hơn - và các
phong trào xã hội... (Giddens, 1990, tr.
302-303).
Khái niệm cấu trúc trừu tượng hơn. Để
phát triển khái niệm này Giddens đã chịu
ảnh hưởng khái niệm Saussure đã sử
dụng, là “cái gì nằm ngoài không gian và
thời gian” (Giddens, 1979, tr. 66), nó không
phải là đối tượng của quan sát trực tiếp mà
hình thành “một quy tắc ở chiều sâu mà ta
phải suy diễn từ những biểu hiện bề mặt”
(Giddens, 1984, tr. 65), hay nói cách khác
cấu trúc như là những vết tích của ký ức...
nhờ đó chủ thể định hướng ứng xử của
mình (Giddens, 1984, tr. 66) và khác với
quan niệm thông thường, nó là bên trong
chứ không phải bên ngoài hành động:
“Trong cách dụng ngữ của tôi, cấu trúc là
cái gì đem lại hình thức và định dạng cho
đời sống xã hội, nhưng chính nó không
phải là hình thức và định dạng ấy. Cũng
không nên hiểu “đem lại” theo nghĩa chủ
động vì cấu trúc chỉ có thể tồn tại trong và
thông qua hoạt động của các tác nhân”
(Giddens, 1989, tr. 256).
Tác động của cấu trúc được Giddens diễn
tả qua cụm từ “tính hai mặt của cấu trúc”
(structure duality), nhằm vượt lên song đề
nêu trên. Một mặt cấu trúc tác động lên
chủ thể bằng cách ép buộc các thực hành
xã hội đi vào quy tắc (rules). Ví như, trong
xã hội hiện đại, ta sinh ra và đã có hệ
thống tiền tệ, mà ta khó có thể không sử
dụng trong các hoạt động trao đổi hàng
ngày (Giddens, 2009, tr. 89). Nhưng mặt
khác, cấu trúc cho phép chủ thể hành động
thông qua những nguồn lực (resources),
qua đó chủ thể sản xuất và tái sản xuất
các hệ thống xã hội. Như vậy cấu trúc hình
NGUYỄN XUÂN NGHĨA – PIERRE BOURDIEU VÀ ANTHONY GIDDENS
77
thành từ những quy tắc