Với việc nghiên cứu ở chương 1 chúng ta có thể thấy rõ được bản chất và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể đạt được những hiệu quả mong muốn trong việc điều hành chính sách lãi suất. Điều này được thể hiện rõ qua quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua
31 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương II
Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam từ khi cải cách kinh tế cho tới nay
Với việc nghiên cứu ở chương 1 chúng ta có thể thấy rõ được bản chất và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể đạt được những hiệu quả mong muốn trong việc điều hành chính sách lãi suất. Điều này được thể hiện rõ qua quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Do đó chúng ta cần phải đi tìm hiểu thực trạng quá trình điều hành chính sách lãi suất tại Việt Nam trong thời gian qua để đánh giá được vai trò thực của lãi suất đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam và cũng thấy được những điểm còn hạn chế để từ đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian tới. Đây chính là nội dung chủ yếu được nghiên cứu trong chương này.
1.Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn từ cải cách kinh tế cho tới nay.
Năm 1986 có thể coi là dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế có những cải cách toàn diện, đặc biệt là việc xoá bỏ chế độ tập trung bao cấp. Cùng với quá trình cải cách kinh tế thì chính sách tiền tệ của NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng cũng có những thay đổi để phù hợp với chế độ kinh tế mới. Vì vậy chúng ta có thể coi năm 1986 như là một dấu mốc cho công cuộc chuyển đổi chính sách chính sách kinh tế nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Trải qua hơn một thập kỷ, NHNN đã điều hành chính sách lãi suất trong từng thời kỳ ra sao, sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất trong từng giai đoạn để từ đó thấy được yêu cầu cần phải hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian tới.
1.1. Giai đoạn 1986-1988.
Bước vào năm 1986 nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, nền kinh tế có nhiều biến động. Giá cả hàng hoá tăng liên tục, tốc độ tăng cao nhất là đạt 73,2%/ tháng vào năm 1986. Hơn nữa giai đoạn này được đánh dấu bởi hệ thống ngân hàng cấp một nên mọi quyết định đều do NHNN đưa ra.
Do ảnh hưởng của tư tưởng nền kinh tế tập trung bao cấp và cơ chế xin cho nên mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là thể hiện sự bao cấp của chính phủ đối với nền kinh tế.
Thực tế trong thời gian này NHNN điều hành lãi suất cho vay luôn nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay luôn ở mức thấp, thấp hơn tỉ lệ lạm phát rất nhiều (xem bảng 1).
Bảng1: Diễn biến lãi suất và lạm phát giai đoạn 1986- 1988
Năm
1986
1987
1988
Lãi suất tiền gửi cao nhất (%/ tháng)
6
6
6
Lãi suất cho vay cao nhất (%/ tháng)
5,4
5,4
5,4
Lạm phát (%/ tháng)
73,12
17,54
26,04
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Giá cả hàng hoá tăng vọt nhưng lãi suất ở mức quá thấp cộng với cơ chế cho vay theo chỉ định “gần như tự động hoá” nên đã khích lệ chủ nghĩa cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh, họ đổ xô vào vay vốn ngân hàng, vay đến mức tối đa để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc vay vốn thì các doanh nghiệp cũng thực hiện chiến lược “găm hàng” để chờ ăn chênh lệch giá (do giá cả tăng hàng ngày). Điều đó đã tạo ra nhu cầu vốn và hàng hoá giả tạo. Cơ chế tài chính buộc các ngân hàng phải cho vay với lãi suất thấp, sau đó nhà nước bù lỗ đã dồn gánh nặng tài chính lên hệ thống ngân hàng. Cả hệ thống ngân hàng cũng không thể đáp ứng đủ vốn cho các doanh nghiệp.
Như vậy trong thời kì này chính sách lãi suất của ngân hàng quá kém. Ngân hàng vô hình chung đã trở thành thủ quỹ của nền kinh tế, cấp phát tài chính cho các doanh nghiệp, còn lãi suất là một công cụ điều tiết quan hệ cung cầu vốn, điều tiết lưu thông tiền tệ lại trở thành công cụ kích thích gia tăng lạm phát, gây mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu vốn, nuôi dưỡng tư tưởng bao cấp, dồn ngân hàng vào thế bị động. Lãi suất ngân hàng không thực hiện được chức năng kích thích tiết kiệm cho nền kinh tế và qua thời kì này chúng ta cũng thấy được một chính sách lãi suất thấp không phải bao giờ cũng tốt cho nền kinh tế.
1.2. Giai đoạn 1989-1991
Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam chưa thoát khỏi khủng hoảng, lạm phát vẫn ở mức 2 con số, ngân sách nhà nước thâm hụt lớn. Hệ thống ngân hàng đã được cải tiến thành hệ thống ngân hàng cấp hai theo nghị định 53- HĐBT của hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) vào tháng 6 năm 1988, song về cơ bản hệ thống ngân hàng vẫn là cấp một .
Nhận rõ được vai trò của lãi suất là công cụ quan trọng trong việc chống lạm phát và với yêu cầu cấp bách là phải ổn định, phát triển kinh tế, NHNN đã đưa ra mục tiêu là phải thực hiện chính sách lãi suất cao, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Thực hiện mục tiêu trên, NHNN đã thực thi giải pháp tình thế là thực hiện chính sách lãi suất tiền gửi cao hơn chỉ số lạm phát để thu hút mạnh mẽ lương tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn kinh doanh cho các ngân hàng thương mại. Thực tế chính sách lãi suất này được thực hiện cho tới hết năm 1991.Tuy nhiên, lãi suất huy động bình quân vẫn cao hơn lãi suất cho vay bình quân. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 2: Diễn biến lãi suất tiền gửi và cho vay giai đoạn 1989-1991
Năm
1990
1991
%/ tháng
%/ năm
%/ tháng
%/ năm
Lãi suất huy động bình quân
4,5
54
2,8
33,6
Lãi suất cho vay bình quân
3,2
38,4
2,6
31,2
Nguồn: Tạp chí ngân hàng năm 1994
Qua bảng trên ta thấy mức lãi suất huy động cao hơn mức lãi suất cho vay nên đã khuyến khích dân chúng, doanh nghiệp vay vốn để gửi vào ngân hàng và ăn chênh lệch lãi suất. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp quốc doanh, không thể vay vốn để sản xuất vì họ không thể thu được lợi nhuận trong tình hình lạm phát vẫn còn cao, rủi ro nhiều nên họ đã gửi tiền vào ngân hàng an toàn hơn mà vẫn thu được lãi. Do vậy, tổng lượng vốn huy động đã tăng thêm 4042 tỷ đồng trong năm 1991 nhưng tốc độ đã giảm đi 4,48% so với năm 1990 và tổng tín dụng tăng cả về số lượng và tốc độ: số lượng tăng thêm 4341 tỷ đồng, tốc độ tăng 32,6% (IMF Report on Viet nam1998)
Bên cạnh đó, NHNN còn điều hành thị trường thông qua Thể lệ tín dụng của NHNN đối với các tổ chức tín dụng (QĐ số 2- QĐ/ NH1 ngày 8-1-1991) nhằm bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán và bổ sung vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng. Theo thể lệ này, để bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán thì các tổ chức tín dụng được vay bù trừ vốn thiếu hụt trong thanh toán và được chiết khấu các chứng từ (trái phiếu kho bạc mà các TCTD đã mua và các khế ước cho vay chưa đến hạn thu nợ nhưng có khả năng chắc chắn thu nợ đúng hạn). NHNN khi tái cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại không cần thế chấp các chứng từ. Đồng thời NHNN cũng qui định lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán gù trừ (gọi tắt là cho vay bù trừ) đối với các NHTM.
Kết quả là chính sách lãi suất cao trong thời kì này đã góp phần chống lạm phát phi mã, đưa nền kinh tế dần vào ổn định. Những lợi ích đó có được xuất phát từ một chính sách lãi suất cao trong bối cảnh nền kinh tế lúc bấy giờ là: thu hút khối lượng tiền rất lớn trong lưu thông, tiền nhàn rỗi của dân cư chuyển từ việc mua hàng hoá sang gửi tiết kiệm, làm cho giá vàng giảm 50%, đồng tiền từ chỗ mất giá sang có giá. Hơn nữa do tác động của lãi suất cao đã có tác động dây chuyền làm giải toả một khối lượng vật tư hàng hoá dự trữ trong kho của các đơn vị sản xuất kinh doanh, phá bỏ sự khan hiếm hàng hoá giả tạo, kéo giá hàng hoá vật tư hàng hoá giảm xuống. Đồng thời áp dụng lãi suất cao cũng làm cho NHNN không phải phát hành tiền vào lưu thông, góp phần làm giảm lạm phát.
Bên cạnh những lợi ích trên thì việc thực hiện chính sách lãi suất cao đã gây ra những khó khăn đối với một số ngành nghề kinh tế, đó chính là “thòng lọng” để thắt cổ các đơn vị kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp. Do đó, chính sách lãi suất cao không thể duy trì được trong một thời gian dài do những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế. Và sau một thời gian gần 1 năm thực hiện cơ chế lãi suất cao hơn lạm phát, đến đầu năm 1990 tỷ lệ lãi suất lại dần thu hẹp lại. Quý III/ 1990 lãi suất bắt đầu nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất thực âm bắt đầu quay trở lại
Giai đoạn 1991-1995
Có thể nói đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Hệ thống ngân hàng có những cải cách tích cực với sự ra đời của luật NHNN năm 1992. Tỷ lệ lạm phát đã giảm dần song vẫn ở mức 2 con số. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần qua các năm. (xem bảng dưới đây)
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
(%/ năm)
1993
(%/ năm)
1994
(%/ năm)
1995
(%/ năm)
Tỷ lệ lạm phát
17,5
5,2
14,4
12,7
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
8,6
8,1
8,8
9,5
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1/ 1997
Cùng với cải cách kinh tế là quyết tâm xoá bỏ bao cấp và hỗ trợ cho các doanh nghiệp về lãi suất cho nên mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là thực hiện chính sách lãi suất thực dương, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao quyền tự quyết của các tổ chức tín dụng.
Thực hiện quyết tâm trên, từ tháng 6 năm 1992 Ngân hàng nhà nước đã không trực tiếp ấn định mức lãi suất cụ thể mà chỉ qui định trần lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu. Trong giai đoạn này, lãi suất đã có những chuyển biến tích cực sang dương tuyệt đối: Tỷ lệ lạm phát< lãi suất huy động bình quân< lãi suất cho vay bình quân. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau:
Bảng 4: Lãi suất ngân hàng thương mại và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
(%/năm
1993
(%/ năm)
1994
(%/ năm)
1995
(%/ năm)
Tỷ lệ lạm phát
17,5
5,2
14,4
12,7
Lãi suất huy động bình quân
22,8
16,8
15,6
16,8
Lãi suất cho vay bình quân
30
21,6
19,2
20,4
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1/1997
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy lãi suất huy động đã giảm so với giai đoạn trước, song vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát nên vẫn đảm bảo lãi suất huy động thực dương. Do đó, những người gửi tiền vào ngân hàng sau một thời gian sẽ thu được lãi chứ không phải mất dần vốn, làm cho lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng tăng lên (xem bảng sau)
Bảng 5: Tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm / M2 giai đoạn 1992-1995
Năm
1992
1993
1994
1995
Số lượng tiền gửi vào NHTM (tỷ đồng)
16565
18070
24383
33539
Tỷ trọng tiền gửi/M2 (%)
61
56
56,7
63,6
Nguồn : Báo cáo ngân hàng nhà nước 1997
Mặc dù lãi suất huy động giảm song tốc độ giảm thấp hơn tốc đô tăng của lượng vốn huy động nên tiền lãi phải trả cho người gửi tiền vào ngân hàng tăng lên làm cho chi phí huy động vốn tăng theo do tiền lãi mà ngân hàng phải trả cho người gửi tiền vào ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng cho phí huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng của chi phí huy động vốn vẫn thấp hơn tốc độ tăng của lượng vốn huy động, nên có thể nói ở một khía cạnh nào đó các ngân hàng thương mại đã bắt đầu huy động vốn có hiệu quả hơn.
Lãi suất huy động giảm giúp cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận của đơn vị mình. Mức lãi suất cho vay giảm qua các năm đã khuyến khích các doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện rõ qua nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng từ 19% năm 1992 lên 42% năm 1995 (IMF Report on Viet Nam 1998).
Trong giai đoạn này, chúng ta còn thấy một vấn đề nữa là lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, có nghĩa là các doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản lợi tức nhỏ hơn cho ngân hàng nhưng lại được sử dụng vốn đó trong một khoảng thời gian dài hơn. Có thể thấy rõ điều này qua bảng 6:
Việc qui định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn như vậy làm méo mó cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, gây mạo hiểm đối với các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Bởi trên thực tế các ngân hàng thương mại sẽ không đi vay vốn dài hạn mà tập trung vào loại vốn ngắn hạn, rồi dùng vốn ngắn hạn cho vay cả trung và dài hạn. Tiền gửi ngắn hạn có tính thanh khoản cao trong khi cho vay trung và dài hạn thì thu hồi vốn chậm nên những lúc có nhiều người rút tiền ra, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thanh toán.
Bảng 6: Lãi suất tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn giai đoạn 1992-1995
Đơn vị: %/ năm, %/ tổng vốn tín dụng
Năm
1992
1993
1994
1995
Lãi suất huy động ngắn hạn bình quân
21,2
16
16,8
16,8
Lãi suất huy động trung và dài hạn bình quân
23
17,5
18
19,2
Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân
40,8
28,2
25,2
25,2
Lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân
21,2
18
16,9
14,4
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 2 năm 1996
Nhận thấy chính sách không phù hợp này, đến năm 1994, NHNN đã tiến một bước dài trong quá trình điều hành lãi suất khi qui định trần lãi suất ngắn hạn thấp hơn trần lãi suất dài hạn. Đây là chính sách phù hợp với qui luật hình thành lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, NHNN còn điều hành chính sách lãi suất ngắn hạn đối với các TCTD theo quyết định số 285-QĐ/ NH14 năm 1995 qui định tái cấp vốn đối với các TCTD, qui định này thay cho qui định số 02- NH/ QĐ ngày 8-1-1991. Theo quyết định này, NHNN chỉ tái cấp vốn cho nền kinh tế dưới hình thức chiết khấu chứng từ (gồm trái phiếu kho bạc và khế ước cho vay ngắn hạn) và cho vay theo chỉ định. Ngay từ đầu năm 1995, NHNN đã thống nhất lãi suất tái cấp vốn (suất chiết khấu) là 100% lãi suất cho vay theo khế ước của các ngân hàng. Mức lãi suất này không phụ thuộc vào chứng từ chiết khấu mà do NHNN qui định theo mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Như vậy, chính sách lãi suất trong giai đoạn này đã có những bước tiến đáng kể, lãi suất đã từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với qui luật thị trường hơn. NHNN cũng đã chú ý đến việc sử dụng các công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách lãi suất, đó là bước tiến mới trong quá tình thực hiện tự do hoá lãi suất.
1.4. Giai đoạn từ tháng 10/ 1995 đến 1997.
Nền kinh tế dần đi vào ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, năm 1995 đạt 9,5%. Tỷ lệ lạm phát ở mức thấp (xem bảng 7), đó là dấu hiệu tốt để các NHTM hạ lãi suất huy động, từ đó vừa tăng được lượng vốn cho vay mà không lànm giảm đi lượng vốn huy động. Bảng 7: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1996-1997
Thời kỳ
Lạm phát(%/tháng)
T1-15/7/96
0,55
16/7-T8/96
-0,55
T9/96
0,3
T10/96-T6/97
0,34
T7/97-T12/97
0,42
Nguồn: Thời báo ngân hàng 12/1997
Mục tiêu điều hành lãi suất trong giai đoạn này là NHNN phải luôn bám theo diễn biến kinh tế trong nước và thế giới để điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay đối với tất cả các loại, các thành phần kinh tế. Tiếp tục qui định trần, sàn lãi suất nhưng theo hướng tự do hơn nữa. Bên cạnh đó là phải tiến tới xoá bỏ chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, xoá bỏ nghịch lí giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Thực hiện chủ trương trên tháng 10 năm 1995 NHNN đã ra nghị quyết khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và huy động là 0,35%/ tháng. Đồng thời cũng giảm trần tất cả các loại lãi suất cho vay và huy động, điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn (xem bảng 8)
Bảng 8: Lãi suất cho vay và huy động của các NHTM giai đoạn 96-97
Thời kì
LS cho vay ngắn hạn
LS cho vay trung và dài hạn
LS cho vay trung và dài hạn
LS huy động ngắn hạn
T1-15/7/96
1,7-1,75
1,65-1,7
1,35-1,4
1,3-1,35
T6/7-T8/96
1,55-1,6
1,6-1,65
1,2-1,25
1,25-1,3
T9/96
1,45-1,5
1,5-1,55
1,1-1,15
1,15-1,2
T10/96-T6/97
1,2-1,25
1,3-1,35
0,85-0,9
0,9-1,0
T7-T12/97
0,95-1,0
1,0-1,1
0,65-0,75
0,8-0,85
Nguồn: Thời báo ngân hàng T12/1997
Đây là một chuyển biến tích cực giúp cho các NHTM mạnh dạn hơn trong việc sử dụng công cụ lãi suất để huy động vốn cho vay trung và dài hạn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Kết quả của việc điều chỉnh hợp lý này là tổng nguồn vốn tín dụng qua hệ thống ngân hàng đã tăng thêm 12266 tỷ đồng và tốc độ tăng thêm 3% từ năm 1996 đến 1997 (WB Report on Viet Nam 1998)
Một dấu mốc quan trọng khác là vào 15/71996, NHNN đã tiến hành tự do hoá lãi suất tiền gửi, cho phép các TCTD tự quyết định các mức lãi suất tiền gửi. Đây là bước đi phu hợp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của các TCTD. Tốc độ huy động vốn đã tăng từ 25,3% năm 1996 lên 34,3% năm 1997 (IMF Report on Viet Nam 1998).
Như vậy chính sách lãi suất trong giai đoạn này đã có những bước đi thích hợp hơn trong việc điều chỉnh mối tương quan giữa lãi suất ngắn hạn, trung và dài hạn. Tuy nhiên, chính sách lãi suất vẫn còn cứng nhắc, NHNN vẫn còn qui định nhiều trần và sàn lãi suất, điều đó gây khó khăn cho các TCTD trong quá trình thực hiện nghiệp vụ của mình.
Giai đoạn từ năm 1997 đến tháng 8 /2000
Từ cuối năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ ở châu á, tỷ giá hối đoái của VND bị biến động, sức mua của VND đến cuối năm đã giảm so với đầu năm khoảng 10%. Hơn nữa giai đoạn này cũng được đánh dấu bằng sự suy thoái kinh tế chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi sự suy thoái đó. Đặc biệt là trong năm 1999, nền kinh tế Việt Nam không phải đối mặt với tình trạng lạm phát mà là tình trạng giảm phát kéo dài. Nguồn vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các doanh nghiệp thì ứ đọng hàng hoá. Điều này không phải là do nền kinh tế đã bão hoà về hàng hoá mà theo các nhà kinh tế thì đó là do cuộc khủng hoảng thừa: thừa ở một số mặt hàng được sản xuất ra với chi phí cao, tính cạnh tranh thấp, trong khi đó vẫn thiếu ở một số ngành trọng điểm có vốn đầu tư lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận không cao. Bước sang năm 2000 tình trạnh trên vẫn tiếp diễn, các ngân hàng vẫn ứ đọng vốn trong khi đó các doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Đứng trước thực trạng kinh tế trên, mục tiêu điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn này là phải nhằm “kích cầu” nền kinh tế, chấm dứt tình trạng thiểu phát kéo dài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện chủ trương trên ngay từ khi triển khai thực hiện hai luật ngân hàng (luật NHNN 12/12/1997 và luật các tổ chức tín dụng 31/12/1997) trong năm 1998 NHNN đã thực hiện kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng việc qui định trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, duy trì chính sách tự do hoá lãi suất tiền gửi, bỏ qui định về khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 0,35/ tháng, đồng thời thống nhất trần lãi suất cho vay trên địa bàn thành thị và nông thôn. Đồng thời để thực hiện chủ trương kích cầu nền kinh tế trong năm 1999 NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay từ mức 1,25%/ tháng đối vớiwnvay trung và dài hạn và 1,2%/ tháng đối với cho vay ngắn hạn xuống còn một mức thống nhất là 0,8%/ tháng đối với khu vực thành thị và 1%/ tháng đối với khu vực nông thôn (Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 2 năm 2000).
Tuy nhiên, lãi suất cho vay thực tế vẫn còn cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc (khoảng 7-8%), làm cho nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh. Hậu quả là tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng vẫn tiếp tục diễn ra do tốc độ cho vay luôn thấp hơn so với tốc độ tăng tiền gửi. Điều này được thể hiện rõ qua bảng sau:
Bảng 9: Tốc độ huy động và cho vay của hệ thống NHTM năm 1999
Quí
I
II
III
IIII
Tốc độ huy động vốn
3,52
9,3
19,3
2,6
Tốc độ cho vay
âm
6
8,5
12
Nguồn: Tạp chí thị trường 12/1999 và 2/2000
Đứng trước khó khăn của năm 1999, sang năm 2000 các ngân hàng vẫn tiếp tục giảm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng VND để khắc phục tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng và tăng cầu tín dụng cũng như cầu hàng hoá cho nền kinh tế.
Bảng 10: Mặt bằng lãi suất tiền gửi của các NHTM từ T1-T8/2000
Lãi suất tiền gửi
VND
USD
Không kỳ hạn
1,2-3,0
1,5-2,0
Kỳ hạn 3 tháng
3,24-6,6
4,0-5,0
Kỳ hạn 6 tháng
4,2-7,2
4,5-5,3
Kỳ hạn 9 tháng
4,8-6,84
5,25-5,6
Kỳ hạn 12 tháng
5,4-7,8
5,0-5,8
Nguồn: Thời báo ngân hàng 1-8/2000
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy các ngân hàng thương mại đã hạ mức lãi suất huy động danh nghĩa xuống song vẫn đảm bảo mức lãi suất huy động thực dương (t