Sau 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, gần 20 năm qua Đảng và nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong gần 20 năm đổi mới vừa qua chúng ta đãđạt được những thành tựu quan trọng không chỉở trong nước mà cả trong quan hệ quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề khó khăn không nhỏ.
Có thể nói gần 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội ở VN đã vận động trong ánh sáng và trong mảng tối, trong sự trong lành và cả bụi bặm của cuộc sống, nhiều góc cạnh của thực tế trong nước và quốc tếđầy biến động. Qua gần hai thập kỷ trăn trở tìm tòi vừa thực nghiệm trong nước vừa quan sát thế giới. Từng bước chuẩn xác hóa quan niệm trong tư duy, hoạt động trong thực tiễn, cách diễn đạt bằng ngôn từ. Tới Đại hội IX năm 2001, chúng ta xác định rằng nền KTTT định hướng XHCN là mô hình tổng quát của nước ta trong suốt thời kỳ quáđộđi lên CNXH, phát triển nền KTTT ấy làđường lối chiến lược lâu dài của Đảng và nhà nước ta.
Ngày nay thế giới đã bước sang thế kỷ 21, là thế kỷ văn minh và sáng tạo, loài người đang bước những bước vững chắc của mình trong công cuộc làm chủ thế giới, những thành tựu khoa học không ngừng gia tăng, những phát minh khoa học tiến bộ ngày càng được ứng dụng nhiều vào thực tiễn, nên năng suất lao động ngày càng nâng cao, xã hội ngày càng phát triển vàđời sống con người được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam chúng ta cũng tồn tại trong thế giới không ngừng vận động và biến đổi ấy.
28 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶTVẤNĐỀ
Sau 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, gần 20 năm qua Đảng và nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong gần 20 năm đổi mới vừa qua chúng ta đãđạt được những thành tựu quan trọng không chỉở trong nước mà cả trong quan hệ quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề khó khăn không nhỏ.
Có thể nói gần 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội ở VN đã vận động trong ánh sáng và trong mảng tối, trong sự trong lành và cả bụi bặm của cuộc sống, nhiều góc cạnh của thực tế trong nước và quốc tếđầy biến động. Qua gần hai thập kỷ trăn trở tìm tòi vừa thực nghiệm trong nước vừa quan sát thế giới. Từng bước chuẩn xác hóa quan niệm trong tư duy, hoạt động trong thực tiễn, cách diễn đạt bằng ngôn từ. Tới Đại hội IX năm 2001, chúng ta xác định rằng nền KTTT định hướng XHCN là mô hình tổng quát của nước ta trong suốt thời kỳ quáđộđi lên CNXH, phát triển nền KTTT ấy làđường lối chiến lược lâu dài của Đảng và nhà nước ta.
Ngày nay thế giới đã bước sang thế kỷ 21, là thế kỷ văn minh và sáng tạo, loài người đang bước những bước vững chắc của mình trong công cuộc làm chủ thế giới, những thành tựu khoa học không ngừng gia tăng, những phát minh khoa học tiến bộ ngày càng được ứng dụng nhiều vào thực tiễn, nên năng suất lao động ngày càng nâng cao, xã hội ngày càng phát triển vàđời sống con người được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam chúng ta cũng tồn tại trong thế giới không ngừng vận động và biến đổi ấy.
Như trên đã nói nước ta đã chuyển sang nền KTTT gần 20 năm. Mặc dùđãđạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra những khó khăn thách thức không nhỏ cho đất nước ta. Sở dĩ như vậy là vì KTTT luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Chính vì thế mà giờđây so với các nước trên thế giới thì Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu, KHKT chậm phát triển và hiệu quả sản xuất chưa cao nên đời sống nhân dân chưa được cải thiện là bao. Tình hình nước ta như vậy nên việc nghiên cứu nền KTTT định hướng XHCN là một vấn đề tất yếu đặt ra cho mỗi sinh viên chúng ta. Khi nghiên cứu nền KTTT, chúng ta tìm ra được hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích tìm hiểu nền KTTT trong mối quan hệ tổng thể, trong sự phát triển, vận động không ngừng của nền kinh tế. Do vậy cần phải vận dung quan điểm lịch sử cụ thể rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin vào quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Khi nghiên cứu quá trình nền KTTT và quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào đó sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta đi đúng hướng, giup Đảng ta vạch ra những đường lối, chính sách đúng đắn đưa nền kinh tế nước ta đi lên phát huy được mặt tích cực hay thế mạnh của nền KTTT đồng thời khắc phục được những mặt hạn chế, tiêu cực của nền KTTT đó.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta sánh vai với các nước bạn, đểđạt được mục tiêu của Đảng đề ra là xây dựng nhà nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có kỷ cương xoá bỏáp bức bất công cho mọi người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc như trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã dựa trên chính những yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể hay xây dựng trên quan điểm đóđể chứng minh những vấn đề có liên quan đến nền KTTT. Và nền KTTT đãđược xây dựng phát triển như thế nào? Vị trí vai trò của nó trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Với khuôn khổ của bài tiểu luận, tôi không thể khái quát được nhiều hay ở tầm vĩ mô của nền kinh tế mới mà chỉ nghiên cứu ở tầm vi mô. Tôi hy vọng với những kiến thức nhỏ bé này tôi sẽ phần nào cung cấp cho bạn đọc một số thông tin, giúp cho bạn đọc hiểu được những thuận lợi, khó khăn và vai trò của nền KTTT trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Từđó có thểđóng góp một phần nào đóđể tiếp tục xây dựng nền kinh tế Việt Nam để nước ta có thể sánh vai với các nước phát triển trên thế giới.
NỘIDUNG
Sự cần thiết xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Tình hình kinh tế Việt Nam trước thời kỳđổi mới (1976-1985).
Sau ngày giải phóng đất nước, nhân dân Việt Nam đứng trước một cơ hội mới để xây dựng và phát triển nền kinh tế vì có thuận lợi cơ bản là tiềm năng kinh tế của hai miền có thể bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng với những vấp váp, sai lầm trong các chính sách kinh tế nên đến năm 1985 kinh tế nước ta đã rơi vào khủng hoảng và vòng xoáy của lạm phát, thể hiện trên những mặt chủ yếu sau đây:
Kinh tế tăng trưởng thấp.
Từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50% tức là bình quân mỗi năm trong giai đoạn này chỉ tăng 4,6%. Đã thế sản xuất kinh doanh lại kém hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên. Năm 1980, chi phí vật chất chiếm 41,9% tổng sản phẩm xã hội; năm 1985 tăng lên chiếm 44,1%. Do vậy, thu nhập quốc dân qua hai kế hoạch 5 năm tăng 38,8%, bình quân mỗi năm tăng 3,7%.
Làm không đủăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người tăng 25,7% so với năm 1975. Như vậy, trong 10 năm 1975-1985 bình quân mỗi năm dân số tăng là 2,3%. Đểđảm bảo đủ việc làm và thu nhập của nhân dân không giảm thìít nhất nền kinh tế phải tăng 7% mỗi năm. Nhưng trên thực thế nền kinh không đạt mức đó nên sản xuất trong nước luôn luôn không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu. Thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80% đến 90% nhu cầu sử dụng. Tích luỹ tuy nhỏ bé, nhưng toàn bộ tích luỹ và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Trong những năm 1976 -1980 thu vay và tiền viện trợ nước ngoài bằng 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng thu trong nước. Nếu so với tổng chi ngân sach thì bằng 37,3%, ba chỉ tiêu tương ứng của thời kỳ 1981-1985 lần lượt là 22,4%, 28,9% và 18,6%. Tính đến năm 1985, nợ nước ngoài đã lên tới 8,5 tỉ Rúp và 1,9 tỉ USD. Tuy nguồn thu về từ nước ngoài lớn như vậy nhưng ngân sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và phải bùđắp bằng phát hành bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6%. Giá trị xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá trị nhập khẩu. Tỉ lệ xuất khẩu thường chỉ bằng 20%-40%, nhập khẩu năm 1976 bằng 21,7%, 1977 bằng 26,5%, 1978 bằng 25,1%, 1979 bằng 21,0%, 1980 bằng 25,8%, 1981 bằng 29,0%, 1982 bằng 35,8%, 1983 bằng 40,4%, 1984 bằng 32,2%, 1985 bằng 37,5%. Hầu hết các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ cho sản xuất vàđời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong nước không đảm bảo được tiêu dùng. Ngoài sắt, thép, máy móc, xăng dầu, thiết bị còn nhập cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước đáp ứng được nhu cầu như gạo, vải mặc. Trong những năm 1976-1980 đã phải nhập 60 triệu mét vải các loại và 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo. Sau 10 năm đất nước thống nhất việc xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng thiếu nên cái gì cũng quý.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng cấp số nhân.
Cơn sốt lạm phát không biết đã ra đời trong nền kinh tế từ bao giờ song ngay từ năm1976 nóđã từng tồn tại và cứ lớn dần lên ngoài ý muốn của con người. Năm 1985 cuộc cải cách giá-lương-tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm cho cơn sốt lạm phát vụt lớn nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hoá tác dụng đổi tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả không chỉ tăng ở thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường có tổ chức. Về cơ bản, giá cảđã tuột khỏi tầm tay bao cấp của nhà nước. Siêu lạm phát đạt đỉnh cao trong năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới 774,4%.
Sự cần thiết khách quan cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi để bán ra thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tếhàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiêp của người sản xuất mà nhằm để bán, tức làđể thoả mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó, toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. KTHH và KTTT không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển và về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
1.2.1. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTT ở Việt Nam.
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tếđộc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chếđộ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuât-công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Quan hệ hàng hoá- tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tếđối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tếđang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt đối với các hàng hoáđưa ra trao đổi trên thị trường, thế giới. Sự trao đổi ởđây phải theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan, thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nóđược.
Thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN và tác dụng to lớn của nền KTTT.
Thế nào là KTTT định hướng XHCN.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khac nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình kinh tếđó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn. Đó là, chúng ta đã kịp thời chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước tiên cần tìm khái niệm KTTT. Kinh tế thị trường được hiểu là một kiểu kinh tế-xã hộ mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá-tiền tệ, với quan hệ cung-cầu. Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hôi là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất cũng phải sử dụng nó như là một khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi giai đoạn đều cóđặc điểm riêng. Trong các gia đoạn đóđã từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến năm 1986 khi nước ta đổi mới nền kinh tế chúng ta đã xác định được một định hướng đúng đắn cho nền KTTT đó làđịnh hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với nền KTTT Tư bản chủ nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân phục vụ nhân dân, lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội là mục tiêu để tăng trưởng kinh tế.
Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quáđộ lên CNXH còn mang tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mọi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu, nhờđó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trên thị truờng. Quá trình đó giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền KTHH, người sản xuất phải căn cứ cào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đo KTHH kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động xã hội làđiều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoa, đến lượt nó sự phát triển KTHH sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, có tính xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghềđáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Như vậy, phát triển KTTT là một tất yếu kinh tếđối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuât, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tế những năm đổi mới đă chứng minh rằng, việc chuyển sang nền KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền KTHH nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhip độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của KTTT có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Vềđại thể KTHH phát triển qua 3 giai đoạn tương ứng với 3 giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: Sản xuất hàng hoá giản đơn, KTTT tự do, KTTT hiện đại. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang KTHH. Mô hình kinh tế Việt Nam được xác định là nền KTHH nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.
Tính đặc thù của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Phát triển KTHH, KTTT có vai trò rất quan trọng đối với nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn XHCN thì không còn con đường nào khác là phát triển KTTT. KTTT khắc phục được kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ...Vì vậy phát triển KTTT được coi là chiếc đòn kéo để xây dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất. Nền KTTT ở nước này không thể là bản sao của nước khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền KTTT này đối với nền KTTT khác phải kểđến định hướng chính trị, kinh tế, xã hội chi phối sự vận động và phát triển của nền KTTT.
Ở nước ta những định hướng XHCN của xã hội là:
Thứ nhất, phát triển nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, với sựđa dạng của các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủđạo.
Thứ hai, phát triển nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Thứ ba, xây dựng nền KTTT hội nhập vào nền KTTT khu vực và thế giới với nhiều hình thức quan hệ và liên kêt phong phú, đa dạng.
Với định hướng trên, mục thiêu phát triển nền KTTT định hướng XHCN được xác định là: tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kiinht tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ vàđầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... đểđưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển.
Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng, bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta:
Một là KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển, kiểu tổ chức nền kinh tế này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt đến mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Hai lànền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác phải trở thành nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủđạo. Các thành phần kinh tếđều vận động theo định hướng chung và theo khuôn khổ pháp luật của nhà nước XHCN.
Ba là kinh tế thị trường định hướng XHCN mang bản chất của CNXH.
Bốn là KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế “mở” cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế XH, hoạt động của cơ chế thị trường không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoá mà còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tếđặc thù của các PTSX chủđạo. Do vậy mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tếTBCN và trong nền kinh tếđịnh hướng XHCN có những điểm khác nhau cơ bản.
2.1. Đặc tính chung thống nhất của KTTT.
KTHH là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. KTHH là loại hình kinh tế tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, trong sự phát triển của xã hội loài người. KTTT là trình độ phát triển cao hơn của KTHH, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai tròđặc biệt quan trọng của KTTT trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực sản xuất xã hội. Trong xã hội, nếu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì tất yếu có thị trường. Quy mô của lưu thông hàng hoá và sức mua của xã hội quyết định dung lượng thị trường. Đến lượt mình, sử dụng, mở rộng và lành mạnh hoá thị trường lại có tác dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Thị trường gắn với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thị trường hình thành ởđâu có cung- cầu hàng hoá, nói đến thị trường là nói đến giá cả, tiền tệ, người bán, người mua. Thị trường là tổng hoà những mối quan hệ mua- bán trong xã hội, được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử kinh tế- xã hội nhất định. Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã hội. Trình độ và quy mô thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất và thu mua của xã hội.
Nền KTTT có cả mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực, đó là cơ chế tựđiều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh tế giỏi. Trên cơ sởđó, KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển... Về mặt tiêu cực, trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị huỷ hoại, tình hình cạnh tranh không lành