Quan hệ giữa Nga và ASEAN giai đoạn 2000 - 2010

Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ và đang tác động nhiều đến việc định hướng chính sách đối ngoại của các nước và khu vực trong đó có Nga và ASEAN. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng là khu vực năng động nhất thế giới với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội và những hợp tác mang tính toàn cầu. Khu vực ASEAN đang đóng vai trò trung tâm trong nhiều mối liên kết toàn cầu và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước lớn. Những năm đầu thế kỷ XXI khi tổng thống Putin lên cầm quyền thì Liên bang Nga ngày càng quan tâm nhiều hơn tới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như ASEAN điều này thể hiện rõ trong chính sách hướng đông của Liên bang Nga. Chính sách này được xây dựng trên nguyên tắc phát triển và củng cố toàn diện các mối quan hệ song phương với các quốc gia, kết hợp với việc tham gia tích cực vào các tổ chức chính trị và kinh tế đa phương trong khu vực. Đường lối đối ngoại của nga ở khu vực này được khẳng định phải tận dụng tối đa hiệu quả của việc kết hợp lợi ích bên trong với bên ngoài nhằm đảm bảo an ninh quốc gia cũng như phát triển nước Nga nói chung và vùng Siberi và Viễn Đông của Nga nói riêng. ASEAN coi Nga là một nhân tố quan trọng cho hòa bình và phát triển trên thế giới và còn nhiều tiềm năng để họ có thể phát triển hợp tác trong tương lai.

doc62 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1610 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan hệ giữa Nga và ASEAN giai đoạn 2000 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất tới các thầy cô trong khoa Quan hệ quốc tế trường Đại học Dân lập Đông Đô, Viện Nghiên cứu Châu Âu, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Thư viên Quốc Gia, Thư viện Trường Đại Học Dân Lập Đông Đô, bạn bè và người thân đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình. Đặc biệt em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, người đã trực tiếp dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận này. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng hoàn thiện khóa luận bằng tất cả năng lực của mình nhưng do thời gian hạn chế, kiến thức chưa chuyên sâu nên khóa luận của em không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn để giúp em hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày……tháng……năm 2011 Sinh viên  Nguyễn Diễm Ly DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFAS: Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN AIA: Khu vực đầu tư ASEAN AICO: Hiệp định khung về hợp tác công nghiệp ASEAN APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ARF: Diễn đàn khu vực ASEM: Diễn đàn hợp tác Á – Âu EAC: Cộng đồng Đông Á EU: Liên minh Châu Âu FTA: Hiệp định thương mại tự do FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP: Tổng sản phẩm quốc nội NAFTA: Khu vực tự do thương mại Bắc Mỹ ODA: Viện trợ phát triển chính thức OSCE: Tổ chức hợp tác an ninh Châu Á PMC: Hội nghị Bộ trưởng ASEAN(với các bên đối thoại) SME: Doanh nghiệp vừa và nhỏ SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập TAC: Hiệp ước thân thiện và hợp tác TNC: Công ty xuyên quốc gia TTXVN: Thông tấn xã Việt Nam USD: Đô la Mỹ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGA – ASEAN TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI. 3 1.1. Bối cảnh quốc tế: 3 1.1.1. Toàn cầu hóa : 3 1.1.2. Cách mạng khoa học công nghệ : 4 1.1.3. Xu thế hòa bình hợp tác phát triển: 5 1.1.4. Quan hệ giữa các nước lớn với nhau: 6 1.2. Chính sách đối ngoại mới của Nga: 7 1.2.1. Tiềm lực mới của Nga hiện nay: 7 1.2.2. Chính sách đối ngoại mới của Nga hiện nay: 8 1.3. Khu vực ASEAN: 9 1.4. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tới quan hệ Nga – ASEAN: 10 CHƯƠNG 2: QUAN HỆ GIỮA NGA VÀ ASEAN GIAI ĐOẠN 2000 -2010 12 1.1. Những nội dung chủ yếu của quan hệ Nga – ASEAN giai đoạn năm 2000 đến năm 2010: 12 1.1.1. Quan hệ trên lĩnh vực chính trị - an ninh: 12 1.1.2. Quan hệ trên lĩnh vực thương mại: 18 1.1.3. Quan hệ trên lĩnh vực đầu tư: 21 1.1.4. Quan hệ trên lĩnh vực quân sự: 25 1.1.5. Hợp tác trên lĩnh vực năng lượng : 30 1.1.6. Quan hệ trên lĩnh vực khoa học công nghệ : 32 1.1.7. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa du lịch: 34 1.2. Nhận xét quan hệ Nga – ASEAN trong thời gian qua: 37 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGA – ASEAN TRONG THỜI GIAN TỚI 41 3.1. Định hướng phát triển quan hệ Nga – ASEAN trên một số lĩnh vực chủ yếu: 41 3.1.1. Định hướng phát triển về chính trị, an ninh: 42 3.1.2. Định hướng phát triển kinh tế: 44 3.1.3. Định hướng về văn hóa, khoa học và giáo dục: 45 3.2. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển quan hệ Nga – ASEAN: 46 3.2.1. Tăng cường hợp tác chính trị và an ninh: 46 3.2.2. Cần đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư: 47 3.2.3. Tăng cường hỗ trợ phát triển giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và đào tạo: 49 3.2.4. Tăng cường hợp tác trên một số lĩnh vực ưu tiên: 49 3.3. Vai trò cầu nối của Việt Nam trong quan hệ Nga – ASEAN: 51 KẾT LUẬN 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57 LỜI MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ và đang tác động nhiều đến việc định hướng chính sách đối ngoại của các nước và khu vực trong đó có Nga và ASEAN. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng là khu vực năng động nhất thế giới với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội và những hợp tác mang tính toàn cầu. Khu vực ASEAN đang đóng vai trò trung tâm trong nhiều mối liên kết toàn cầu và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nước lớn. Những năm đầu thế kỷ XXI khi tổng thống Putin lên cầm quyền thì Liên bang Nga ngày càng quan tâm nhiều hơn tới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như ASEAN điều này thể hiện rõ trong chính sách hướng đông của Liên bang Nga. Chính sách này được xây dựng trên nguyên tắc phát triển và củng cố toàn diện các mối quan hệ song phương với các quốc gia, kết hợp với việc tham gia tích cực vào các tổ chức chính trị và kinh tế đa phương trong khu vực. Đường lối đối ngoại của nga ở khu vực này được khẳng định phải tận dụng tối đa hiệu quả của việc kết hợp lợi ích bên trong với bên ngoài nhằm đảm bảo an ninh quốc gia cũng như phát triển nước Nga nói chung và vùng Siberi và Viễn Đông của Nga nói riêng. ASEAN coi Nga là một nhân tố quan trọng cho hòa bình và phát triển trên thế giới và còn nhiều tiềm năng để họ có thể phát triển hợp tác trong tương lai. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực đang diễn ra hết sức sôi động trên thế giới và khu vực quan hệ Nga ASEAN ngày càng được đẩy mạnh, Việt Nam là một nước nằm trong ASEAN nghiên cứu quan hệ Nga ASEAN trong giai đoạn này đem lại kinh nghiệm thực tiễn và bổ ích cho các nhà nghiên cứu các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam và những hiểu biết này sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa 2 nước cũng như rút ra được bài học kinh nghiệm cho chúng ta trong quá trình xây dựng quan hệ Việt Nam – Liên Bang Nga trong thời gian tới. Đây là lý do em chọn đề tài: “ Quan hệ giữa Nga và ASEAN giai đoạn 2000- 2010” 2/ Mục đích nghiên cứu: Làm rõ vị thế của Liên bang Nga trong ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới giai đoạn 2000 -2010. Thực trạng và triển vọng trong quan hệ giữa Nga và ASEAN Tác động tới Việt Nam 3/ Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Xác định thực trạng của quan hệ giữa Nga và ASEAN trong giai đoạn 2000-2010 Đánh giá thực trạng và triển vọng quan hệ giữa Nga và ASEAN trong thời gian tới. 4/ Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu quan hệ của Liên bang Nga và ASEAN từ năm 2000 đến 2010 trong thế kỷ XXI. Xem xét quan hệ dưới lĩnh vực chính trị - an nhinh và kinh tế (thương mại và đầu tư) 5/ Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích, tập hợp, phương pháp so sánh kết hợp phân tích… 6/ Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có bố cục 3 chương: Chương 1: Bối cảnh quốc tế và những nhân tố tác động đến quan hệ Nga và ASEAN trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Chương 2: Quan hệ giữa Nga và ASEAN giai đoạn 2000 – 2010. Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển quan hệ giữa Nga và ASEAN trong thời gian tới. CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGA – ASEAN TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI. Bối cảnh quốc tế: Ngày nay, trong một thế giới đang toàn cầu hóa không thể tồn tại các quốc gia ổn định và phát triển tách biệt với quá trình này. Đường lối phát triển của quốc gia trong giai đoạn hiện nay phải phụ thuộc không chỉ vào tiềm lực, vào tinh thần vào tình hình chính trị xã hội trong nước mà còn chịu tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực. Toàn cầu hóa : Bước sang thế kỷ 21, sự vận động và phát triển của thế giới chịu tác động mạnh mẽ của các xu hướng chính như là toàn cầu hóa là một xu thế khách quan mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực, đang lôi cuốn hầu hết mọi quốc gia, bất luận ở trình độ phát triển nào tham gia vào quá trình này toàn cầu hóa kinh tế với sự phổ biến nền kinh tế thị trường trên cấp độ toàn cầu diễn ra cùng với các quá trình tự do hóa kinh tế, tăng cường liên kết kinh tế khu vực, song phương và đa phương. Toàn cầu hóa nhanh chóng hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực để vươn tới quy mô toàn cầu. Thực chất đây là quá trình nhất thể hóa về thị trường, vốn, sức lao động, công nghệ và các quy định về pháp chế kinh tế giữa các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác và phân công lao động. Xu hướng toàn cầu hóa đem lại sự thuận lợi cho các quốc gia nó phát triển rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới chứ không phải riêng một nước nào cả. Toàn cầu hóa thương mại phát triển mạnh mẽ chưa từng có và nó là xu thế khách quan tạo ra sự thay đổi không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên lĩnh vực phân công lao động quốc tế, sự phổ biến của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia vì vậy toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nền kinh tế xâm nhập vào nhau, bổ sung lẫn nhau trong một nền kinh tế thế giới thống nhất. Điều này đã tạo thuận lợi để các nước cùng hợp tác, phát triển, đón những thay đổi mới trong đó có tác động tới sự quan hệ của Nga – ASEAN. Bên cạnh sự thuận lợi toàn cầu hóa cũng đang đặt ra những thách thức lớn như là các cuộc đấu tranh cục bộ, xung đột vũ trang, mâu thuẫn dân tộc tôn giáo, chạy đua vũ trang, toàn cầu còn đặt ra cấp bách bởi sự xuất hiện của chủ nghĩa khủng bố, ô nhiễm môi trường… Chủ nghĩa khủng bố là mối đe dọa toàn cầu trong thập niên đầu thế kỷ XXI, sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ đã dẫn đến các cuộc chiến ở Apganixtang và Irac bọn khủng ố trở nên điên cuồng, chúng không chỉ gây hại cho nước Mỹ, các nước Châu Âu mà còn cả ở khu vực Đông Nam Á làm hơn 200 khách du lịch ở đảo Bali, Indonexia bị chết do ném bom, các lực lượng đòi ly khai ở Thái Lan, bọn khủng bố ở Philippin… Ngoài ra có thể thấy hàng loạt các vấn đề về an ninh như buôn bán ma túy, rửa tiền, tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán phụ nữ và trẻ em…rồi sự xuống cấp của môi trường sống trên toàn cầu, dịch bệnh đang gia tăng rất nhanh nó ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của chúng ta chính vì trước những thách thức mang tính toàn cầu này đang kéo các quốc gia lại gần với nhau trong quan hệ hợp tác ngày càng được mở rộng bởi không có quốc gia nào có thể giải quyết một mình được. Cách mạng khoa học công nghệ : Theo tiến trình lịch sử, nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp. Nội dung cơ bản mỗi cuộc cách mạng ấy là sự thay thế các công cụ sản xuất thô sơ, thủ công cũng như thay thế các quá trình sản xuất lạc hậu, đơn biệt bằng việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất tiến dần lên từ cơ khí hoá đến tự động hoá, sản xuất kiểu dây truyền hiện đại, với những nguồn năng lượng mới... Khoa học - kỹ thuật không chỉ dừng ở đó, mà còn có sự phát triển tiếp tục. Trong những thập kỷ gần đây, nó đã có sự chuyển biến về chất, vì thế cách mạng khoa học - kỹ thuật đã trở thành cách mạng khoa học - công nghệ (CM KH-CN). Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ảnh hưởng tới sản xuất và kinh tế của nhiều nước bởi nếu như trước đây cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở thế kỷ 18 đến thể kỷ 19 đã đưa từ sản xuất công trương thủ công sang thời đại cơ khí. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đưa từ thời đại cơ khí lên dây chuyền sản xuất tự động. Những thành tựu này của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được áp dụng một cách đại trà và thống nhất trong một quy trình tạo điều kiện để đưa năng suất sản lượng lên một tầm cao mới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này đã tác động sâu sắc tới tất cả các nước về mặt tích cực với các nước phát triển cuộc cách mạng sẽ tạo điều kiện để phát triển nhanh, mạnh hơn nữa. Với các nước đang phát triển, các nước đang xây dựng xã hội chủ nghĩa thì cuộc cách mạng sẽ giúp các nước này thu hẹp thời gian để phát triển kinh tế trong đó có các nước ASEAN và Nga. Tuy nhiên nó cũng mang lại những mặt bất lợi đối với các nước này vì nếu như các nước không tận dụng được những thành tựu khoa học kỹ thuật thì trái lại còn làm cho các nước này ngày càng tụt hậu hơn. Xu thế hòa bình hợp tác phát triển: Hòa bình hợp tác là xu thế chính trong quan hệ quốc tế hiện nay kể từ sau kết thúc chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991 ( Liên xô tan rã và sự sụp đổ của bức tường Beclin) lúc này cục diện thế giới là “đơn cực” của Mỹ. Bằng những sức mạnh và tiềm lực của mình trên các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị và quân sự Mỹ ra sức phô trương thanh thế của mình. Chính những hành động này cảu Mỹ thì một loạt nước đã điều chỉnh chiến lược để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Tất cả sự điều chỉnh này đều nhằm vì một thế giới “đa cực” chứ không phải “ đơn cực”. Cấu trúc chiến lược quốc tế đã phát triển từ nhất siêu đa cường sang đa cực hóa vừa có nhân tố trỗi dậy của EU, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ, vừa có sự gia tăng chủ nghĩa đơn cực và bá quyền của Mỹ “Nguyễn Xuân Thắng, báo cáo tại hội thảo quốc tế thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện Nga – Asean những năm đầu thế kỷ 21 tp hồ chí minh tháng 3/2007”. Điều đó nói lên một thực tế: Sợi chỉ đỏ trong quan hệ quốc tế từ khi chiến tranh lạnh kết thúc cho đến nay và cả trong tương lai vẫn là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển. Sau chiến tranh lạnh thì xu hướng chạy đua vũ trang giảm đi thay vào đó các nước chuyển nhanh sang phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế. Liên minh Châu Âu ( EU) và Hoa Kỳ đã ký kết “ Chương trình nghị sự xuyên Đại Tây Dương” vào tháng 12 năm 1995 tạo ra một “ không gian thị trường chung” của cả hai châu lục Âu – Mỹ. Quan hệ Á – Mỹ hình thành với sự ra đời của Diễn đàn kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ( gọi tắt là APEC). Điều này tạo cơ hội cho hai châu lục hợp tác và phát triển…. Sở dĩ như vậy là vì nó xuất phát tù những lợi ích chung và riêng của từng quốc gia dù nước đó lớn hay nhỏ đều không tự mình giải quyết được. Vì vậy mà các quốc gia phải hợp tác với nhau. Bởi nếu một quốc gia nghèo không tạo ra môi trường địa chính trị hòa bình ổn định để phát triển thì sẽ bị tụt hậu nhanh chóng so với các quốc gia khác bởi họ không thể tranh thủ những lợi thế của mình để phát triển đất nước bằng cách hợp tác với các nước lớn, tận dụng điểm mạnh của họ nhằm phát triển đất nước mình. Đối với các quốc gia lớn một khi có chiến tranh xảy ra thì kinh tế sẽ không phát triển được đất nước không có thu nhập thì vị trí và vai trò của nước đó sẽ bị thụt giảm nhanh chóng. Đây là điều bất lợi mà bất cứ nước nào cũng không muốn nó xảy ra với nước mình. Vì thế mà xu hướng hòa bình hợp tác đặt lên hàng đầu. Trong một lần trả lời phỏng vấn tờ báo “Arabies” tổng thống Nga V.Putin đã nói rằng: “ Xu hướng chủ đạo của thế giới ngày nay là hòa giải và hợp tác”. Chủ tịch Trung Quốc ông Hồ Cẩm Đào trong chuyến thăm Nga cũng đã khẳng định rằng: “ Hòa bình và phát triển là chủ đề của thời đại”. Như vậy xu hướng hợp tác, hòa bình cùng phát triển là xu hướng chính và quan trọng nhất. Nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ các nước trên thế giới trong đó có Nga và ASEAN. Quan hệ giữa các nước lớn với nhau: Các nước lớn có vai trò quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế. Nước lớn là nước có những sức mạnh tổng hợp về ( dân số, diện tich, kinh tế, sức mạnh lan tỏa của văn hóa..). Trên thế giới hiện nay các nước lớn chiếm một vị trí quan trọng như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ… có dân số chiếm ½ của thế giới. Các nước này phần lớn đều nằm trong tổ chức Liên Hợp Quốc để có thể nói lên ý kiến của mình. Các nước lớn đều đang khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Tiêu biểu trong số đó là Hoa Kỳ luôn muốn vươn lên làm bá chủ thế giới. Nga và Đức cũng đang khẳng định vị trí của mình trong những năm gần đây làm thế giới phải chú ý. Nga là nước duy nhất trên thế giới có sức mạnh hạt nhân ngang ngửa Mỹ. Tứ cường quốc lớn Anh, Pháp, Đức, Italia đều đang thay đổi chiến lược để có vai trò mạnh hơn. Bên cạnh đó Châu Á Thái Bình Dương với các nước Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế tài chính nhưng Nhật Bản lại không có các thế mạnh về những mặt khác vì vậy mà Nhật muốn thay đổi lại vị thế của mình ở trên trường quốc tế. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang thu hút sự tập trung chú ý của các nước lớn. Các nước lớn đều muốn gây ảnh hưởng của mình ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương nói chung và khu vực ASEAN nói riêng. Đối với Nga khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng là một trong những yếu tố ưu tiên của chính sách đối ngoại Nga. Nga đã biểu hiện điều này bằng sự tham gia tích cực của Nga trong các công việc khu vực, tập trung vào phát triển quan hệ hữu nghị với các nước tại đây. Chính sách đối ngoại mới của Nga: Tiềm lực mới của Nga hiện nay: Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin trong hai nhiệm kỳ đã đưa nước Nga thực hiện chiến lược xây dựng một xã hội “hậu công nghiệp” . Đường lối cải cách của Tổng thống Putin khẳng định tiếp tục công cuộc cải cách kinh tế thị trường và xây dựng xã hội dân chủ mà ông Enxin đã tiến hành, nhưng có một loạt điều chỉnh chính sách lớn về các mặt chính trị , kinh tế, xã hội, quân sự và đối ngoại. Nhìn chung bước đi và phương pháp tiến hành cải cách thận trọng hơn theo hướng tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước và thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, duy trì sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế, khẳng định ổn định và phát triển kinh tế là nhiệm vụ chủ chốt nhất là việc trọng tâm hàng đầu để đưa đất nước trở lại vị thế đáng phải có của mình. Nhờ đó Nga đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế tăng trưởng cao, chính trị ổn định, các vấn đề xã hội từng bước được giải quyết. Giai đoạn 2000-2003 GDP đã tăng gần 1/3 (29,9%). Năm 2003 tăng trưởng GDP là 7,3% đạt 465,2 tỷ USD. Năm 2004 tăng 6,9% đạt 583,3 tỷ USD. Năm 2005 tăng 6,4% dự trữ ngoại tệ đạt 185 tỷ USD, thặng dư ngân sách Liên bang là 7,5% GDP. Trong những năm 2000-2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao 6 – 7%năm, làm cho GDP tăng 70%, còn trao đổi hàng hóa với nước ngoài tăng hơn 5 lần, đầu tư nước ngoài vào kinh tế Nga tăng 7 lần,thị trường chứng khoán đạt giá trị 1330 tỉ USD. Năm 2007 với tốc độ tăng GDP 8.1%, nền kinh tế Nga đã vượt qua Italia và Pháp về tổng GDP tính theo sức mua tương đương để lọt vào tốp 7 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới...[9] Nga đã tham gia vào nhóm các nước công nghiệp G8, có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như chống khủng bố, bảo đảm an ninh năng lượng, khủng hoảng hạt nhân ở Iran, Bắc Triều Tiên. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm liền, tiềm năng khổng lồ về tài nguyên thiên nhiên, về địa chiến lược, về nguồn nhân lực và công nghệ, và đặc biệt là việc Nga sử dụng có hiệu quả chính sách “ngoại giao dầu lửa” và công cụ “ công nghệ quốc phòng” đã và đang làm cho nước này từng bước xác lập lại ảnh hưởng của mình trên thế giới trong đó có khu vực ASEAN. Trong bối cảnh gia tăng khủng bố bạo lực, tranh chấp tài nguyên thiên nhiên và ngày càng khan hiếm về dầu mỏ và khí đôt thì vai trò của Nga trên thế giới nói chung, Đông Nam Á nói riêng trở nên quan trọng hơn. Chính sách đối ngoại mới của Nga hiện nay: Chiến lược ngả về phương Tây nhằm hội nhập nhanh vào hàng ngũ các nước phát triển của Tổng thống Enxin gần như thất bại và điều này được xuất phát từ những ảo tưởng chủ quan của giới cầm quyền Nga lúc đó cho rằng một khi Nga từ bỏ CNXH thì Mỹ dang tay đón chào trong lúc này nước Nga đang gặp rất nhiều khó khăn như chính trị không ổn đinh các cuộc đấu tranh sắc tộc nổ ra làm cho nhân dân không còn tin vào chính quyền của Enxin. Kinh tế kém phát triển suy thoái nặng nề. Tiếp thu di sản nghèo nàn của người tiền nhiệm trên tất cả các mặt của hoạt động đối ngoại, Tổng thống V. Putin thể hiện rõ ý tưởng từ bỏ chính sách phiến diện nghiêng hẳn về phương Tây để theo đuổi đường lối ngoại giao độc lập mang tinh thực dụng thúc đẩy hình thành trật tự thế giới đa cực. Thực chất tư tưởng ngoại giao mới của V.Putin là bảo đảm cho những lợi ích quốc gia của Nga, đồng thời không bị trượt vào tình trạng đối đầu và những phương phá thù địch, thể hiện sự mềm dẻo, xây dựng mối quan hệ đối tác “ theo các hướng” đạt được sự thỏa hiệp cùng chấp nhận được đối với cả Nga và các đối tác của Nga. Như Tổng thống V.Putin đã từng nhấn mạnh “mục tiêu đối ngoại là sẽ xây dự