Quan hệ Trung Quốc với các nước Phương Tây giai đoạn 1644 - 1842

Quan hệ Trung Quốc với các nước phương Tây giai đoạn (1644 - 1842) là một trong những mối quan hệ mang tính chất đặc trưng so với các mối quan hệ khác cùng thời.Bài viết nhằm làm rõ tính chất đặc trưng đó thông qua việc thực thi chính sách “mở cửa”và “đóng cửa” của Trung Quốc trong quan hệ với các nước phương Tây và chính sách của các nước phương Tây mà tiêu biểu là chính sách xâm nhập bằng thuốc phiện của thực dân Anh đã đưa đến sự bùng nổ cuộc chiến tranh Trung - Anh hay còn gọi là cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất.Hệ quả của nó là việc Trung Quốc buộc phải ký với Anh Điều ước Nam Kinh vào năm 1842. Đây là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên Trung Quốc ký với thực dân Anh nhưng là màn dạo đầu để cho Trung Quốc ký tiếp các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây khác mở đầu cho giai đoạn Trung Quốc trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến.

doc5 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ Trung Quốc với các nước Phương Tây giai đoạn 1644 - 1842, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004 QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY GIAI ĐOẠN 1644 - 1842 Nguyễn Văn Tận Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Sau khi tìm ra được con đường biển sang Ấn Độ, các nước phương Tây tăng cường các mối quan hệ giao lưu buôn bán với phương Đông trong đó có Trung Quốc. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, người Bồ Đào Nha đã đến Ma Cao thuộc tỉnh Quảng Đông để buôn bán. Năm 1535, người Bồ Đào Nha đã thuê Ma Cao với hai vạn lạng vàng mỗi năm để lập cứ điểm buôn bán. Ma Cao vì thế trở thành tô giới đầu tiên của người châu Âu ở Trung Quốc.Sau người Bồ Đào Nha là thương nhân các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Nga, Mĩ lần lượt có mặt trên đất nước Trung Quốc. Theo sau các đoàn tàu buôn là các các nhà truyền đạo phương Tây. Năm 1580, một tu sĩ người Ý tên là Matteo Ricci thuộc phái Dòng tên của đạo Ki Tô đến Ma Cao truyền đạo. Ông ta đã dâng lên nhà vua hình chúa Ki Tô, một bản kinh Cựu Ước, một cây thánh giá, hai đồng hồ quả lắc và một bản đồ thế giới. Vua nhà Minh lúc bấy giờ là Van Lịch đã cho phép ông xây dựng giáo đường ở Bắc Kinh. Năm 1644, nhà Thanh thiết lập nền thống trị của mình trến đất nước Trung Quốc. Sau khi chinh phục được Trung Quốc, trên lĩnh vực đối nội nhà Thanh tập trung củng cố nhà nước trung ương tập quyền và tiến hành chính sách áp bức dân tộc còn trên lĩnh vực đối ngoại, nhà Thanh vẫn tiếp tục thực thi chính sách mở cửa cho phép các nước phương Tây đến buôn bán và truyền đạo. Theo sau các đoàn tàu buôn là các giáo sĩ mặc áo choàng đen đến Trung Quốc để truyến đạo. Triều đình nhà Thanh từ Thuận Trị cho đến 30 năm đầu thời Khang Hi đã tạo điếu kiện thuận lợi cho các giáo sĩ phương Tây truyền bá đạo Thiên chúa, thậm chí còn được ưu đãi, một số được phong chức quan và được giao nhiệm vụ soạn lịch. Với chính sách khoan dung trên đã làm cho đạo Thiên chúa ở Trung Quốc phát triển rất nhanh. Đến cuối thế kỷ XVII, số lượng tín đồ đã lên đến hơn 10 vạn người. Tuy nhiên, do Ki Tô giáo rất khắt khe trong việc chỉ cho phép được thờ một thần duy nhất là chúa Giê Su và không cho phép thờ bất kỳ vị thần nào khác.Trong khi đó, các tu sĩ Dòng tên lại khoáng đạt hơn cho phép các tín đồ ở Trung Quốc không những được thờ Khổng Tử mà còn thờ phụng cả tổ tiên. Điều đó đã làm cho các tu sĩ dòng Thánh Dominique và dòng Frăngcois dAssise phản đối và tâu trình lên Giáo Hoàng. Năm 1704, Giáo Hoàng ra lệnh cho các tu sĩ Dòng tên yêu cầu các tín đồ ở Trung Quốc không được thờ Khổng Tử, tổ tiên. Những tu sĩ nào không tuân lệnh thì phải về nước. Vua nhà Thanh lúc đó là Khang Hi là người không kỳ thị tôn giáo nhưng do trong qúa trình truyền đạo, các giáo sĩ phương Tây đã ngấm ngầm tiến hành các hoạt động lôi kéo quần chúng, vẽ bản đồ, điều tra lương thực và số binh mã ở các tỉnh cùng với sự cấm đoán của Giáo Hoàng nên đã ban hành sắc lệnh cấm hẳn việc truyền đạo. Các vua kế vị Khang Hi tuân thủ một cách triệt để sắc lệnh trên cho nên về sau quan hệ giữa nhà Thanh với các nước phương Tây trở nên căng thẳng. Từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi, chính quyền phong kiến Mãn Thanh thực thi chính sách “đóng cửa” trong quan hệ với các nước phương Tây. Nếu như trong thời kỳ Khang Hi trị vì triều đình phong kiến Mãn Thanh cho phép các thuyền buôn của các nước phương Tây đến buôn bán ở các cửa biển Quảng Châu, Ninh Ba, Định Hải và Hạ Môn thì đến năm 1757, nhà Thanh chỉ cho phép thuyền buôn nước ngoài đến trao đổi hàng hóa ở Quảng Châu và ra lệnh đóng 3 cửa biển trên. Trước tình hình đó, các nước thực dân phương Tây đã tìm mọi cách để mở cửa Trung Quốc. Trong số các nước thực dân phương Tây thì tư bản Anh là nước quan tâm mở cửa Trung Quốc bằng mọi giá kể cả việc sử dụng vũ lực. Bởi vì, so với các nước phương Tây khác, tư bản Anh là nước không những có ưu thế về hải quân, thương thuyền mà còn chiếm ưu thế trong việc sản xuất hàng hóa và buôn bán với Trung quốc. Đời Khang Hi, công ty Đông Ấn của Anh đã thiết lập được mối quan hệ buôn bán ở Quảng Châu. Đến năm 1764, tổng giá trị hàng nhập khẩu của nước Anh tư bản với Trung Quốc là 120 vạn lạng bạc, chiếm 63% tổng giá trị hàng hóa Anh mua của Trung Quốc là 170 vạn lạng bạc, chiếm 47% hàng hóa của các nước phương Tây mua của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán tư bản Anh mua của Trung Quốc nhiều loại hàng hóa như đồ sứ, hàng dệt và chè, trong khi đó người Trung Quốc mua rất ít hàng hóa của Anh. Để bù đắp vào sự thiếu hụt trên, thực dân Anh đã yêu cầu triều đình Mãn Thanh mở thêm cửa biển để cho tàu bè của Anh đến buôn bán. Năm 1793, chính phủ Anh cử Mac Cartrey đang làm Tổng đốc Mađrat của Ấn Độ đến Bắc Kinh thương thuyết, yêu cầu mở 3 thương cảng mới, nhường tô giới cho Anh và cho phép nước Anh có một đại diện ở trong triều đình Mãn Thanh. Vua nhà Thanh lúc bấy giờ là Càn Long với thái độ trịnh thượng đã từ chối đề nghị của sứ thần Anh và ngạo mạn tuyên bố: “Trung Quốc có đủ tất cả các sản phẩm cho nên không cần dùng sản phẩm nước ngoài. Vả lại, nước Anh muốn tiếp thu văn minh Trung Quốc thì văn minh Trung Quốc cũng không thể đem gieo ở nước Anh được vì lễ nghi, luật lệ Trung Quốc khác xa Anh” Năm 1816, thực dân Anh lại cử sứ giả đến Bắc Kinh để xin ưu đãi về thương mại nhưng vẫn bị từ chối. Trước chính sách cứng rắn của nhà Thanh, thực dân Anh đã sử dụng thuốc phiện làm công cụ để xâm nhập vào lãnh thổ Trung quốc. Trong khi đó, thực dân Pháp vẫn sử dụng ưu thế truyền thống của mình là dùng đạo Thiên chúa làm công cụ xâm lược chủ yếu. Riêng Mĩ, trong thời kỳ này chưa đủ sức cạnh tranh với Anh, Pháp nhưng vẫn tìm cách để len chân vào trị trường Trung Quốc rộng lớn. Năm 1784, các tàu buôn của Mĩ đã xuất hiện ở miền duyên hải Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ XIX, Mĩ đứng hàng thứ hai sau Anh trong quan hệ buôn bán thuốc phiện với Trung quốc (chiếm khoảng từ 10 đến 20% khối lượng buôn bán của Anh). Mặc dù, việc buôn bán thuốc phiện của các thương nhân Anh phải qua môi giới trung gian nhưng với phương sách đó, thực dân Anh đã đưa được một khối lượng lớn thuốc phiện vào lãnh thổ Trung Quốc. Năm 1838, các thuyền buôn của Anh đã đưa vào lãnh thổ Trung Quốc 40.000 thùng thuốc phiện, mỗi thùng tương đương 70kg. Hậu quả của việc buôn bán thuốc phiện đã tác động một cách nghiêm trọng đối với đời sốïng kinh tế - xã hội của nhân dân Trung Quốc. Bạc trắng của Trung Quốc chạy ra ngoài ngày một nhiều. Đồng thời với điều đó, nạn buôn bán thuốc phiện đã làm suy nhược thể lực và tinh thần của người Trung Quốc. Triều đình phong kiến Mãn Thanh nhiều lần ra lệnh cấm hút thuốc phiện, nhưng càng cấm thì dân chúng lại càng hút nhiều hơn. Năm 1838, vua Đạo Quang ban hành sắc lệnh trừng trị nghiêm khắc đối với những người nghiện thuốc phiện, thậm chí xử tử cả người hút lẫn người bán và cử Lâm Tắc Từ làm khâm sai đại thần kiêm Tiết chế thủy sư đến Quảng Châu để thực hiện lệnh cấm buôn bán thuốc phiện. Tại đây, Lâm Tắc Từ một mặt củng cố lại lượng quân đội, tăng cường phòng thủ ở các cửa biển nhưng đồng thời một mặt khác tỏ rõ thái độ kiên quyết với thực dân Anh yêu cầu các thương nhân Anh phải nộp toàn bộ số thuốc phiện đang tích trữ. Kết quả Lâm Tắc Từ đã thu được 20.000 thùng và đem đốt toàn bộ số thuốc phiện đó và đổ xuống biển. Ngoài ra, Lâm Tắc Từ còn thông báo cho các nước phương Tây biết chính sách cấm đoán và trừng phạt của triều đình nhà Thanh đối với những người buôn bán thuốc phiện. Với chính sách cứng rắn trên đã làm cho âm mưu của thực dân Anh trong việc dùng thuốc phiện để mở cửa Trung Quốc bị thất bại. Quan hệ giữa nước Anh tư bản với triều đình phong kiến Mãn Thanh vì thể trở nên căng thẳng. Năm 1840, thực dân Anh quyết định sử dụng vũ lực bắt Trung Quốc phải mở cửa. Cuộc chiến tranh Trung - Anh mà lịch sử quen gọi là chiến tranh thuốc phiện bùng nổ trong tình hình như vậy. Cuộc chiến tranh kéo dài hơn hai năm ( 1840 - 1842) kết thúc bằng sự thất bại của triều đình phong kiến Mãn Thanh. Nhà Thanh buộc phải ký Điều ước Nam Kinh (1842) với những điều khoản chủ yếu sau đây: - Trung Quốc cắt Hương Cảng cho Anh. - Mở 5 cửa biển Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn, Ninh Ba, Thượng Hải cho thương nhân châu Âu đến buôn bán cùng với việc cho phép người Anh đến cư trú và lập lãnh sự quán tại các nơi đó. - Bồi thường cho Anh 21 triệu bảng. - Hàng hóa xuất nhập khẩu phải do hai bên bàn bạc. - Công văn hai nước trao đổi với nhau một cách bình đẳng. Thương nhân người Anh được tự do buôn bán tại các cửa khẩu đã được thông thương. Đây là điều ước bất bình đẳng đầu tiên Trung Quốc ký với các nước phương Tây nhưng là màn dạo đầu để cho Trung Quốc ký tiếp các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây khác mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử Trung Quốc - giai đoạn Trung Quốc trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Một vài nhận xét: Nhìn lại quan hệ Trung Quốc với các nước phương Tây thời nhà Thanh giai đoạn 1644 -1842, chúng ta thấy đây là giai đoạn các nước phương Tây tìm mọi cách để xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Trong đó hai công cụ mà các nước phương Tây thường sử dụng đó là truyền giáo và buôn bán thương mại. Đối với công việc truyền giáo, trong thời kỳ đầu các nước phương Tây đã tạo nên được những cơ sở trên lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều giáo đường được thành lập, số lượng tín đồ theo đạo Ki Tô ngày càng đông. Chính sách khoan dung, không kỳì thị tôn giáo của các triều đại phong kiến Trung Quốc đã cho phép các giáo sĩ phương Tây tiếp cận đựơc văn minh Trung Quốc và giới thiệu những thành tựu văn minh Trung Quốc sang các nước phương Tây. Ngược lại, thông qua các nhà truyền đạo, Trung Quốc cũng tiếp thu được các thành tựu khoa học, kỹ thuật của phương Tây. Song do tính chất khắt khe của đạo Thiên chúa cấm tín đồ không được thờ thần nào khác ngoài chúa Giê Su cùng với tính chất không thiện chí của các giáo sĩ phương Tây trong việc lợi dụng công việûc truyền đạo để dọn đường cho quá trình xâm lược Trung Quốc nên về sau nhà Thanh thực thi chính sách cấm đạo gắt gao. Con đường xâm nhập Trung Quốc bằng chính sách truyền đạo của các nước phương Tây cuối cùng bị thất bại. Đối với hoạt động thương mại, Trung Quốc cũng giống như các nước phương Đông khác đều cho phép các nước phương Tây đến trao đổi mua bán. Nhưng do các nước thực dân phương Tây trong đó chủ yếu là thực dân Anh tiến hành các hoạt động trái phép ở miền duyên hải Trung Quốc nên đến thời Càn Long, nhà Thanh đã hạn chế việc mở cửa chỉ cho phép mở một cửa biển duy nhất ở Quảng Châu. Hơn nữa, việc buôn bán của các nước phương Tây được kiểm soát một cách gắt gao và phải thông qua môi giới trung gian là các thương nhân Trung Quốc. Do không được phép đi lại trên lãnh thổ Trung Quốc và không được phép bán hàng trực tiếp cho nên các nước phương Tây không những không phát triển được công việc buôn bán mà còn mất nhiều nguồn lợi to lớn. Đặc biệt, trong quan hệ buôn bán hai chiều các nước phương Tây thường bị nhập siêu đã dẫn đến hậu quả không tốt đối với sự phát triển kinh tế trong nước. Để khắc phục tình trạng trến, các nước phương Tây mà cụ thể là nước Anh tư bản sử dụng lợi thế của việc buôn bán thuốc phiện để mở toang cánh cửa của Trung Quốc. Việc buôn bán thuốc phiện đã vấp phải sự chống đối kịch liệt của triều đình phong kiến Mãn Thanh và đã làm cho chính sách xâm nhập của các nước thực dân phương Tây bằng con đường buôn bán thuốc phiện cuối cùng cũng bị thất bại. Không còn cách nào khác, các nước phương Tây mà chủ yếu là thực dân Anh sử dụng phương sách cuối cùng là tiến hành chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Sự bùng nổ cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất và việc ký Điều ước Nam Kinh (1842) là hệ quả tất yếu của sự căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước thực dân phương Tây giai đoạn 1644 - 1842. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Hiến Lê. Sử Trung Quốc, quyển II, Nxb Văn hóa, Hà Nội (1997) Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quí. Lịch sử Trung Quốc, nxb Giáo Dục, Hà Nội (2001) Will Durant. Lịch sử văn minh Trung Quốc - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn (1972) TÓM TẮT Quan hệ Trung Quốc với các nước phương Tây giai đoạn (1644 - 1842) là một trong những mối quan hệ mang tính chất đặc trưng so với các mối quan hệ khác cùng thời.Bài viết nhằm làm rõ tính chất đặc trưng đó thông qua việc thực thi chính sách “mở cửa”và “đóng cửa” của Trung Quốc trong quan hệ với các nước phương Tây và chính sách của các nước phương Tây mà tiêu biểu là chính sách xâm nhập bằng thuốc phiện của thực dân Anh đã đưa đến sự bùng nổ cuộc chiến tranh Trung - Anh hay còn gọi là cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất.Hệ quả của nó là việc Trung Quốc buộc phải ký với Anh Điều ước Nam Kinh vào năm 1842. Đây là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên Trung Quốc ký với thực dân Anh nhưng là màn dạo đầu để cho Trung Quốc ký tiếp các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây khác mở đầu cho giai đoạn Trung Quốc trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. THE RELATION BETWEEN CHINA AND THE WESTERN COUNTRIES IN THE PERIOD 1644-1842 Nguyen Van Tan College of Sciences, Hue University SUMMARY The relation between China and the Western countries during the period (1644-1842) is one of the relations which has specific characters in comparison with other ones at the same time. This article aims at clarifying those characters through carrying out the “open” and “close” policies of China in relation with the Western countries and the policies of the Western countries, especially the policy of infiltrating drug by the English colony which resulted in breaking into the England - China War or the first drug war. The consequency of that was China had obliged to sign the Nam Kinh Treaty with England in 1842. This is the first unequal treaty signed by China and England; however, it was the first step for China to continue signing the other unequal treaties with other Western countries that began the period when China became a half - colonial and half- feudal country.