Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

Vốn và công nghệ là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mọi quốc gia và là xu thế của thời đại. Đầu tư nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu, là một lợi thế mà các nước đi sau có thể tận dụng để phát triển thay vì phải mất hàng trăm năm tích luỹ ban đầu. Các quốc gia đi sau có thể "mượn vốn, công nghệ, kinh nghiệp quản lý " của các quốc gia đi trước nhằm tạo ra một gia tốc đủ lớn để chiến thắng sức ỳ của nền kinh tế vốn đã còm cõi, lạc hậu. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một nước nghèo, nền kinh tế kém phát triển nói chung và tỉnh U Đôm Xay nói riêng. Để vượt qua tình trạng đó, phải mở cửa nền kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 25/7/1988, cùng với cả nước, U Đôm Xay đã không ngừng nỗ lực kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào U Đôm Xay. Hiện nay, U Đôm Xay đang có 42 dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế và giải quyết được các vấn đề xã hội của tỉnh. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều yếu điểm mà nguyên nhân chủ yếu là thuộc về sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Hậu quả là nhiều dự án đã suy giảm về số lượng dự án, lẫn số vốn đầu tư, trong đó nhiều dự án phải rút giấy phép, hoặc phải đình chỉ trước thời hạn vì nhiều lý do. Làm thế nào để ngăn chặn đã giảm sút đầu tư nước ngoài và tăng cường cạnh tranh lấy vốn đầu tư nước ngoài là một nhiệm vụ được đặt ra cho nhà nước. Do vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu "Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào" nhằm góp phần giải quyết những vấn quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.

doc91 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vốn và công nghệ là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mọi quốc gia và là xu thế của thời đại. Đầu tư nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu, là một lợi thế mà các nước đi sau có thể tận dụng để phát triển thay vì phải mất hàng trăm năm tích luỹ ban đầu. Các quốc gia đi sau có thể "mượn vốn, công nghệ, kinh nghiệp quản lý…" của các quốc gia đi trước nhằm tạo ra một gia tốc đủ lớn để chiến thắng sức ỳ của nền kinh tế vốn đã còm cõi, lạc hậu. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một nước nghèo, nền kinh tế kém phát triển nói chung và tỉnh U Đôm Xay nói riêng. Để vượt qua tình trạng đó, phải mở cửa nền kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 25/7/1988, cùng với cả nước, U Đôm Xay đã không ngừng nỗ lực kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào U Đôm Xay. Hiện nay, U Đôm Xay đang có 42 dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế và giải quyết được các vấn đề xã hội của tỉnh. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều yếu điểm mà nguyên nhân chủ yếu là thuộc về sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Hậu quả là nhiều dự án đã suy giảm về số lượng dự án, lẫn số vốn đầu tư, trong đó nhiều dự án phải rút giấy phép, hoặc phải đình chỉ trước thời hạn vì nhiều lý do. Làm thế nào để ngăn chặn đã giảm sút đầu tư nước ngoài và tăng cường cạnh tranh lấy vốn đầu tư nước ngoài là một nhiệm vụ được đặt ra cho nhà nước. Do vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu "Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh U Đôm Xay - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào" nhằm góp phần giải quyết những vấn quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Nghiên cứu hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh U Đôm Xay và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại U Đôm Xay. 3. Phương pháp nghiên cứu Về mặt lý luận, luận văn dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, các lý thuyết kinh tế và quản lý Nhà nước về kinh tế. Về mặt phương pháp nghiên cứu, khoá luận sử dụng phương pháp tiếp cận. Hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích so sánh, thu thập thông tin tài liệu để làm sáng tỏ nội dung của vấn đề nghiên cứu. 4. Kết cấu khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh U Đôm Xay. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại U Đôm Xay. CHƯƠNG I QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI I. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Đầu tư là một khái niệm rộng, nên có nhiều quan niệm khác nhau về Đầu tư theo nghĩa rộng: Có thể là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, nguồn lực, thời gian, trí tuệ, công nghệ…) để đạt được mục đích hay mục tiêu nhất định nào đó. Những mục tiêu này có thể là mục tiêu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội v.v… và cũng có khi chỉ là mục đích nhân đạo đơn thuần. Đầu tư trong hoạt động kinh tế là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, nhân lực, nguyên liệu, công nghệ…) vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như là bản chất của đầu tư. Đầu tư nói chung là sự hy sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, công nghệ hay trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền, vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn lực có điều kiện làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Do đặc tính tạo ra lợi ích lớn hơn chi phí, đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự tăng trưởng, phát triển của mỗi quốc gia và của từng doanh nghiệp. Nhận thức rõ những vai trò và lợi ích mà hoạt động đầu tư mang lại, các nhà đầu tư trong nước tiến hành nghiên cứu thị trường, mở rộng địa bàn hoạt động tại các quốc gia khác. Do đó, hoạt động đầu tư diễn ra mạnh mẽ, vượt khỏi phạm vi quốc gia và trở thành nội dung cơ bản trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Gọi là đầu tư nước ngoài. - Đầu tư nước ngoài (ĐTNN): Là việc đưa những tài sản ứng trước dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật của chính phủ hay tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận đạt các hiệu quả kinh tế xã hội . Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn, hiện nay ĐTNN được chia thành đầu tư gián tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư gián tiếp nước ngoài: “Là một loại hình trao đổi vốn quốc tế trong đó chủ đầu tư bỏ vốn đầu tư nhưng không trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn”. Hiện nay, đầu tư gián tiếp nước ngoài chủ yếu được tiến hành dưới 3 hình thức sau: + Viện trợ phát triển chính thức (Otticial Development Assistance) viết tắt là ODA. Đây là nguồn viện trợ song phương hoặc đa phương dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp và thường đi kèm với các điều kiện khác nhau. + Tín dụng thương mại: Là hoạt động vay và cho vay vốn với lãi suất thị trường giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, các chính phủ… + Đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu của nước ngoài (Foreign Portfolio Investment), viết tắt là FPI. Với loại hình này, người nước ngoài tham gia đầu tư vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu hoặc mua cổ phiếu của công ty nước ngoài với trị giá thấp chưa đủ để tham gia vào ban điều hành doanh nghiệp (theo luật doanh nghiệp từng nước). Chủ đầu tư được hưởng lãi suất cho vay hoặc lợi tức cổ phần và họ không trực tiếp quản lý điều hành. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: (Foreign Derect Investment), viết tắt là FDI, “là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ theo đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý, điều hành vốn đầu tư”. Các nhà đầu thường sử dụng các hình thức sau để tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán với hình thức này, nhà ĐTNN đầu tư và thị trường chứng khoán, nắm giữ cổ phần chi phối và trực tiếp tham gia điều hành vốn tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này chưa suất hiện ở Lào vì thị trường chứng khoán ở Lào không phát triển và chưa có văn bản pháp luật nào qui định cụ thể để tạo khung pháp lí thuận lợi cho nhà đầu tư. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách đưa vốn hoặc các tài sản khác vào nước nhận đầu tư. Theo điều lệ quốc tế, vốn FDI có thể đóng góp dưới những dạng sau: Các loại ngoại tệ mạnh hoặc tiền nội địa. Các loại hiện vật hữu hình như: Nhà xưởng, nguyên vật liệu, hàng hoá, tài nguyên (cả mặt đất, biển)… Các loại hàng hoá vô hình như: sức lao động, bí quyết công nghệ, bằng phát minh, nhãn hiệu, uy tín của thương hiệu… Đặc điểm của FDI: + Nhà đầu tư quyết định đầu tư, quyết định sản xuất, kinh doanh. Lợi nhuận của nhà đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác cho nước sở tại. + Nhà đầu tư nước ngoài, điều hành, quản lý toàn bộ mọi hoạt động đầu tư đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ vốn góp của mình. + FDI không chỉ có sự lưu chuyển vốn mà còn thường đi kèm theo công nghệ, kiến thức quản lý, kinh doanh và gắn với mạng lưới phân phối rộng lớn lên phạm vi toàn cầu. Vì thế, đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt các nước đang phát triển, thì hình thức đầu tư này tỏ ra có nhiều ưu thế hơn các hình thức khác. + Nguồn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu dưới hình thức vốn pháp định, mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm vốn vay của doanh nghiệp và vốn tái đầu tư từ lợi nhuận thu được. 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ sở hữu vốn của nhà đầu tư. Trên thế giới hiện nay, có các hình thức FDI chủ yếu sau: + Đầu tư độc lập: Đây là hình thức tồn tại của vốn nước ngoài có đặc điểm như sau: - Tồn tại dưới dạng doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài, chủ đầu tư nước ngoài đầu tư vốn 100% tại nước sở tại; có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo qui định pháp luật của nước sở tại. Tồn tại biệt lập trong một khu đặc biệt, được gọi bằng những tên cụ thể như sau: Khu quá cảnh, khu công nghiệp, khu chế suất… tuỳ nội dung kinh tế cụ thể và chế độ quản lý của nước sở tại đối với khu đó. Hình thức độc lập của doanh nghiệp nước ngoài tại nước sở tại thể hiện dưới dạng đặc thù kinh tế nước ngoài thực chất là một bộ phận kinh tế nước ngoài đóng trên lãnh thổ nước chủ nhà. Hình thức đầu tư độc lập được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì có nhiều thuận lợi cho họ. Họ không phải tiếp xúc với sự phức tạp của môi trường bản địa, không bị đối tác khai thác các bí mật công nghệ bí quyết kinh doanh. Về phía nước sở tại, tuy không tiếp cận trực tiếp được các doanh nghiệp nước ngoài nhưng với qui mô đầu tư lớn của doanh nghiệp nước ngoài, nước sở tại vẫn có thể thu lợi nhuận như: giải quyết công ăn việc làm thường xuyên cho một bộ phận lao động xã hội, có thị trường xuất khẩu tại chỗ nguồn nguyên vật liệu cho sản xuất và phục vụ đời sống của người nước ngoài, thu được tài các loại thuế. + Hình thức hội nhập: Hội nhập bản địa là hình thức vốn nước ngoài tham gia vào kinh tế nội địa được thể hiện theo hai hình thức cụ thể sau: - Hình thức liên doanh: Hình thức này được sử dụng thông qua việc thành lập một doanh nghiệp do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh, các bên cùng tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp; chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên và vốn pháp định. Doanh nghiệp liên doanh giúp cho các nhà ĐTNN và nước nhận đầu tư kiếm được lợi ích trong doanh nghiệp. Sự trợ giúp của đối tác liên doanh trong nước là phương thức hiệu quả giúp nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận với môi trường đầu tư mới với những đặc tính pháp lý, phong tục tập quán, văn hoá tiêu dùng… Đổi lại, đối tác tại nước nhận được tài nhà ĐTNN sự trợ giúp về vốn, công nghệ, kinh nghiệp quản lý, thông tin thị trường… và sự chia sẻ rủi ro trong kinh doanh. Đồng thời sự có mặt của đối tác trong nước trong hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh giúp chính phủ nước nhận đầu tư nhanh chóng nắm bắt kịp thời điều chỉnh những hoạt động của nhà ĐTNN có nguy cơ xâm hại lợi ích quốc gia, lợi ích đối tác, người lao động và người tiêu dùng trong nước. Bên cạnh các mặt tích cực, doanh nghiệp liên doanh còn có các mặt hạn chế. Do các bên có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, luật pháp nên dễ xuất hiện mâu thuẫn trong hoạt động điều hành quản lý. Và nước sở tại thường bất lợi thế do tỷ lệ góp vốn thấp, năng lực cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật yếu - Hình thức hợp tác kinh doanh: Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác. Hợp đồng hợp tác kinh doanh đem lại sự hỗ trợ về vốn và kinh nghiệm kinh doanh đồng thời đảm bảo duy trì tính độc lập, linh hoạt trong quản lý kinh doanh giữa các đối tác. Dự án được triển khai nhanh chóng giúp các bên kịp thưòi tranh thủ thời cơ trong khai thác tổng hợp các nguồn lợi kinh tế trên lãnh thổ nước nhận đầu tư. Tuy nhiên do không thành lập thực thể pháp lý riêng biệt ỏ nước nhận đầu tư mà không mang tính chịu trách nhiệm hữu hạn nên hình thức hợp đồng kinh doanh gây khó khăn trong tuyển lao động và ký kết hợp đồng với các đối tác khác để tiến hành các dự án đầu tư. Hơn nữa đây là hình thức bị hạn chế lĩnh vực đầu tư và không được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan như hình thức khác. Hình thức hội nhập là hình thức đầu tư nước ngoài có nhiều lợi ích cho nước sở tại. Nó giúp cho nước sở tại tiếp cận được các khoa học công nghệ, khoa học quản lý tiên tiến của thời đại. Đồng thời qua quan hệ liên doanh nhà nước sở tại có thể phát huy vai trò nội lực của mình trong lý, sản xuất và kinh doanh. Ngoài ra các hình thức FDI phổ biến trên thế giới còn có các hình thức khác như: BOT( xây dung- kinh doanh – chuyển giao), BTO( xây dung – chuyển giao – kinh doanh), BT( xây dung – chuyển giao), …và các hình thức được phân chia như sau: Hình thức FDI theo bản chất của đầu tư + Đầu tư vào phương tiện hoạt động:Đầu tư vào phương tiện hoạtđộng là hình thức đầu tư FDI trong đó công ty mẹ mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. + Hình thức mua lại và sáp nhập: Là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể hoạt động ở nước nhận đầu tư ở nước ngoài) mua lại doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới khối lượng đầu tư vào. Hình thức FDI theo tính chất dòng vốn: + Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư có thể mua cổ phần, hoặc trái phiếu do doanh nghiệp trong nước nhận đầu tư phát hành. + Vốn tái đàu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. + Vốn vai nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay một công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia, có thể cho vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm nâng cao tính hấp dẫn môi trường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động đầu tư. 3. Sự cần thiết khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển chung của thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là nội dung của vấn đề trên. Do vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một xu hướng phát triển khách quan của các quốc gia. + Đối với các quốc gia đầu tư (các nhà đầu tư). Các nhà đầu tư tại các quốc gia phát triển có xu hướng đầu tư ra bên ngoài để khắc phục tình trạng bão hoà của thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong nước, khai thác các lợi thế của thị trường ngoài biên giới quốc gia. Ngoài ra các nhà đầu tư ở các quốc gia phát triển thường gặp khó khăn, do sự không đồng đều giữa các yếu tố đầu vào của sản xuất. Tuy đã có đủ vốn cho quá trình tái sản xuất nhưng nhà đầu tư thường gặp khó khăn do thiếu tài nguyên, đất đai để xây dựng nhà xưởng hoặc chi phí cho các yếu tố đầu vào quá cao. Trước nguy cơ bị suy giảm lợi nhuận một cách nghiêm trọng nếu tiếp tục đầu tư trong nước, các nhà đầu tư có sự chuyển hướng nguồn vốn ra nước ngoài, nơi các yếu tố chi phí sản xuất có lợi thế so sánh như: giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào, địa điểm tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, ít đối thủ cạnh tranh… Chiến lược chuyển hướng này cho phép nhà đầu tư thu nhiều lợi nhuận hơn và đạt được các mục tiêu khác như: mở rộng qui mô hoạt động, chiếm lĩnh thị phần… + Đối với quốc gia nhận đầu tư. Thu hút FDI là một nhu cầu tất yếu nhằm bổ sung vốn, khắc phục, tình trạng thiếu vốn do tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp đồng thời khai thác tốt hơn các thế mạnh như tài nguyên, lao động, thị trường… của quốc gia mình. Đồng thời nó là cơ hội để tiếp nhận các tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ ở các quốc gia phát triển thúc đẩy nhu cầu máy móc thiết bị hiện đại nhất trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Như vậy tính chất khác biệt của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia dẫn đến sự xuất hiện nhu cầu đi đầu tư và nhu cầu được đầu tư trong đó các bên đều phải tìm thấy ở FDI những lợi ích của mình dù ở mức độ lợi nhuận có thể khác nhau. Khi cung và cầu đầu tư gặp nhau, dòng vốn được di chuyển khỏi biên giới quốc gia này và trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế ở quốc gia khác. Do đó FDI trở thành một tất yếu khách quan và có xu hướng ngày càng phát triển và phong phú đa dạng với các loại hình khác nhau. 4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước chậm và đang phát triển Hiện nay, FDI không phải chỉ có ở các nước chậm phát triển và đang phát triển mà ở cả những nước tư bản phát triển. Trong phần này tác giả chỉ nó về vai trò của FDI đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Trong suốt mấy chục năm qua, FDI ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội rất nhiều quốc gia. Ngày nay, vai trò của FDI đã khẳng định nó có đem những lợi thế quan trọng cho các nước tiếp nhận đầu tư trong phát triển kinh tế xã hội. Thứ nhất, FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế. FDI là nguồn vốn quan trọng giúp các nước tiếp nhận đầu tư cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luông vốn ổn định hơn so với các loại vốn đầu tư quốc tế như vốn ODA…, FDI dựa trên triển vọng tăng trưởng, không tạo ra nợ cho chính phủ nước nhận đầu tư và không bị rằng buộc về điều kiện của nhà đầu tư , vì thế ít thay đổi khi tình huống bất lợi. Thứ hai, FDI cung cấp công nghệ mới. Đối với các nước chậm phát triển như Lào, đi tắt đón đầu để có công nghệ mới trong quá trình phát triển kinh tế là một đòi hỏi bức thiết hiện nay. Con đường thuận lợi nhất để làm được điều đó là thông qua FDI, đây được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai trò này được thể hiện thông qua việc chuyển giao công nghệ sẵn có từ các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển khả năng công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà (cũng được mong đợi từ các nhà ĐTNN). Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia sang nước chủ nhà; được thông qua doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm tỷ lệ lớn cổ phần dưới dạng công nghệ. Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các doanh nghiệp FDI còn góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Đồng thời, trong quá trình tham gia liên doanh, các doanh nghiệp trong nước có thể học tập được từ công nghệ nguồn và cải tiến phù hợp với điều kiện trong nước. Để khai thác tốt nguồn vốn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, chuyển giao công nghệ là một phương pháp tất yếu. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào đội ngũ những người lao động ở các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại, có năng lực tổ chức quản lý giỏi, nguồn FDI mới có điều kiện để phát huy tác dụng. Thứ ba, FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm. FDI góp phần tăng qui mô hoạt động hoặc thành lập các doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh mới, thu hút thêm lao động. Đặc biệt, đi theo các dự án FDI là các ngành dịch vụ và gia công cho các dự án này, tạo thêm nhiều cơ hội, việc làm cho người lao động. Đây là môi trường tốt để giải quyết tình trạng lao động dư thừa ở các nước chậm và đang phát triển. Đồng thời FDI cũng tạo ra thu nhập cho người lao động và có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ nhà; thông qua việc tạo điều kiện cho những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI có cơ hội học hỏi, tiếp nhận khoa học công nghệ, rèn luyện kỹ năng lao động, năng lực tổ chức quản lý ở trình độ cao. Nguồn lực quan trọng nà
Tài liệu liên quan