Người bào chữa là người tham gia tố tụng hình sự với trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế giám sát hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người giúp cho chế độ dân chủ trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền của chúng ta.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý, BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
Sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện” để hiểu rõ vấn đề này.
17 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1932 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định của bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa - Thực tiễn và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 2
I – QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA. 2
1. Khái quát về người bào chữa 2
2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa 5
2.1. Quy định của BLTTHS 1988 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa…....4
2.2. Quy định của BLTTHS 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa……5
3. So sánh các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 với các quy định trong BLTTHS 1988 9
II – THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 10
1. Những điểm đã đạt được 10
2. Một số hạn chế 10
III- HƯỚNG HOÀN THIỆN 14
1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật 14
2. Một số biện pháp khác 16
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
MỞ ĐẦU
Người bào chữa là người tham gia tố tụng hình sự với trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế giám sát hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người giúp cho chế độ dân chủ trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền của chúng ta.
Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý, BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
Sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện” để hiểu rõ vấn đề này.
NỘI DUNG
I – QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA.
1. Khái quát về người bào chữa
Khái niệm
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị cạn, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ().
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trường Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra (khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2003)
Những người có quyền bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003(BLTTHS 2003), người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Đây là người bào chữa chủ yếu trong tố tụng hình sự.
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại diện hợp pháp cho người bị tam giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho người bào chữa.
Những người không được bào chữa.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS 2003, những người sau đây không được bào chữa:
Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Một người có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Lựa chọn và thay đổi người bào chữa.
Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS 2003, người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất và đại diện hợp pháp của họ đều có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu bị can, bị cáo đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất và tâm thần thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào chữa. Nếu người thân thích hoặc người khác lựa chọn người bào chữa cho họ thì Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa đó nếu đã có sự ủy quyền của bị can, bị cáo hoặc nếu không có sự ủy quyền thì phải được sự đồng ý của bị can, bị cáo đối với người bào chữa đã được lựa chọn.
Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự;
Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần và thể chất.
Trong các trường hợp này, phải thông báo cho bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ biết. Những người này vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bảo chữa nhưng phải nêu rõ lý do.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm gữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
2.1. Quy định của BLTTHS 1988 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Ngay từ khi ban hành BLTTHS 1988, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đã được đề cập.
Quyền của người bào chữa
Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 BLTTHS 1988, người bào chữa có những quyền sau:
- Có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật.
- Đưa ra chứng cứ và những yêu cầu;
- Gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam
- Được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra
- Có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên toà
- Khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án và quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 37 Bộ luật này.
Nghĩa vụ của người bào chữa
Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLTTHS 1988 nghĩa vụ của người bào chữa gồm có:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo
Giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận, nếu không có lý do chính đáng.
Không được tiết lộ bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ.
2.2. Quy định của BLTTHS 2003 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Quyền của người bào chữa
Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 quy định về quyền của người bào chữa:
2. Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Theo đó, người bào chữa có các quyền sau:
- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi co người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS 2003;
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ cũng có quyền yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa;
Gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giữ:
Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đọc, ghi chép và chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu của vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa:
Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
Nghĩa vụ của người bào chữa
Khoản 3 Điều 58 BLTTHS 2003 quy định cụ thể về nghĩa vụ của người bào chữa. Theo đó, người bào chữa có các nghĩa vụ sau:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
BLTTHS cũng quy định về trách nhiệm của người bào chữa khi làm trái pháp luật tại khoản 4 Điều 58 BLTTHS 2003. Theo đó, người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. So sánh các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 với các quy định trong BLTTHS 1988
Rõ ràng, với sự trình bày ở trên ta thấy rõ BLTTHS 2003 đã có những quy định sửa đổi, bổ sung cơ bản, quan trọng về các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa theo hướng đảm bảo cho người bào chữa thực hiện có hiệu quả các chức năng của mình. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định trong BLTTHS 2003 đã mở rộng các quyền của người bào chữa như quyền được tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa…
Việc mở rộng này đã góp phần nâng cao sự chủ động, tích cực cho người bào chữa trong việc gỡ tội, giảm tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thứ hai, Điều 58 BLTTHS 2003 cũng bổ sung thêm một số nghĩa vụ của người bào chữa như: nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và có mặt theo giấy triệu tập của Toà án…
Sự bổ sung này là cần thiết, góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như ý thức tôn trọng pháp luật của người bào chữa.
Thứ ba, Điều 58 BLTTHS 2003 đã thêm quy định về các loại trách nhiệm pháp lý của người bào chữa trong trường hợp làm trái luật. Quy định này là sự phát triển hơn hẳn của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988. Quy định này góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính răn đe và phòng ngừa trường hợp người bào chữa làm trái pháp luật.
Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS 2003, đặc biệt là việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra được thực hiện nghiêm túc và triệt để sẽ góp phần làm cho việc điều tra - truy tố - xét xử được đúng người, đúng tội bảo đảm tính dân chủ, khách quan và công minh của pháp luật.
II – THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
1. Những điểm đã đạt được
Có thể nói với những quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS, người bào chữa đã có cơ sở pháp lý đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của mình. Các quy định này đã nâng cao quyền công dân của những người tham gia tố tụng.
Thực tế kể từ khi ra đời BLTTHS 1988 quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được ghi nhận trong luật khiến cho những người làm nhiệm vụ bào chữa nhận thức rõ được vai trò, quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình để thực hiện một cách đúng đắn.
Trong những năm qua, nhất là từ khi có quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS 2003 có thể nói các quyền của người bào chữa đã được đảm bảo tương đối tốt từ phía các Cơ quan tiến hành tố tụng. Quy định rõ ràng trong luật khiến cho Các cơ quan tiến hành tố tụng phải thận trọng hơn trong quá trình tố tụng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho những người bào chữa thực hiện tốt các quyền mà mình được hưởng. Từ đó góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ vụ án, tránh oan sai trong các hoạt động tố tụng.
Đồng thời, với những quy định cụ thể về nghĩa vụ trong BLTTHS, người bào chữa đã nhận thức rõ được mình phải làm những gì và không được làm những gì. Có thể thấy những trường hợp vi phạm các quy định này là rất hiếm gặp trong thực tiễn tố tụng ở nước ta. Điều đó cho thấy ý thức tôn trọng pháp luật của những người bào chữa.
2. Một số hạn chế
Tuy các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS được thực hiện khá nghiêm túc trong thực tế nhưng không tránh khỏi những sai phạm và khiếm khuyết nhất định. Cụ thể như sau:
BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có quyền gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam (điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quyền này dường như bị vô hiệu hoá, nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Bởi cơ quan điều tra có cho người bào chữa tiếp xúc với bị can, bị cáo hay không, mới là điều quan trọng. Để gặp được bị can, bị cáo, trước hết người bào ch