Ruộng đất công làng xã ra đời từ rất sơm sinh ra từ các xã nông thôn. Ruộng đất công làng xã khi mới ra đời và bắt đầu phát triển là do các làng xã tự quản, tự chi và cũng tự sử dụng theo tập quán riêng của mỗi làng và được thông qua hương ước của làng. Những thành viên trong làng xã đều xem ruộng đất đó như tài sản thiêng liêng của làng lưu truyền lại cho bao thế hệ. Nên mọi người phải giữ gìn, bảo vệ nó như báu vật thiêng liêng và chỗ dựa cơ bản của chính sách cộng đồng. Do đó, còn tồn tại ruộng đất công làng xã là còn cơ sở đảm bảo sự cố kết bền chặt các mối quan hệ bên trong cộng đồng.
Từ lúc ra đời cho đến thế kỷ XV, quyền sở hữu và quyền tự quản ruộng đất công làng xã là quyền gần như tuyệt đối của mỗi làng. Vào đầu thời phép quân điền đặt ra là một thách đố về quyền lợi và quyền sở hữu của nhà nước đối với dân làng. Làng xã đã chịu nhiều nhân nhượng trước sự tấn công của luật nước về ruộng đất. Vào thời Nguyễn, khi đó quyền và tập quyền được khẳng định, chế độ phong kiến nhà nước được phát triển. Triều Nguyễn lại can thiệp mạnh hơn vào thế giới tự trị của thôn xã cổ truyền bằng luật ruộng đất, việc ưu tiên về khẩu phần và chất lượng cho quan viên chức sắc cao hơn so với thời Lê. Nhưng vòng quay quân cấp chỉ có 3 năm. Triều Nguyễn tỏ rõ khả năng to lớn của đám ruộng công làng xã này trong việc thu thuế, điều động lực dịch, binh lính và sự ổn định xã hội qua sự bất biến của khẩu phần mà người dân vẫn nương tựa.
Việt Nam là một nước nông nghiệp cổ truyền. Do đó, ruộng đất là tư liệu sản xuất hết sức quan trọng. Cũng như các triều đại phong kiến trước đó, từ khi triều Nguyễn thành lập đã hết sức chú trọng tới vấn đề ruộng đất để thúc đẩy kinh tế xã hội. Đặc biệt là ruộng đất công làng xã – cơ sở cho sự tồn tại của bộ máy nhà nước phong kiến.
26 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2451 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ruộng đất công làng xã dưới triều Nguyễn trong thời gian nửa đầu thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Ruộng đất công làng xã ra đời từ rất sơm sinh ra từ các xã nông thôn. Ruộng đất công làng xã khi mới ra đời và bắt đầu phát triển là do các làng xã tự quản, tự chi và cũng tự sử dụng theo tập quán riêng của mỗi làng và được thông qua hương ước của làng. Những thành viên trong làng xã đều xem ruộng đất đó như tài sản thiêng liêng của làng lưu truyền lại cho bao thế hệ. Nên mọi người phải giữ gìn, bảo vệ nó như báu vật thiêng liêng và chỗ dựa cơ bản của chính sách cộng đồng. Do đó, còn tồn tại ruộng đất công làng xã là còn cơ sở đảm bảo sự cố kết bền chặt các mối quan hệ bên trong cộng đồng.
Từ lúc ra đời cho đến thế kỷ XV, quyền sở hữu và quyền tự quản ruộng đất công làng xã là quyền gần như tuyệt đối của mỗi làng. Vào đầu thời phép quân điền đặt ra là một thách đố về quyền lợi và quyền sở hữu của nhà nước đối với dân làng. Làng xã đã chịu nhiều nhân nhượng trước sự tấn công của luật nước về ruộng đất. Vào thời Nguyễn, khi đó quyền và tập quyền được khẳng định, chế độ phong kiến nhà nước được phát triển. Triều Nguyễn lại can thiệp mạnh hơn vào thế giới tự trị của thôn xã cổ truyền bằng luật ruộng đất, việc ưu tiên về khẩu phần và chất lượng cho quan viên chức sắc cao hơn so với thời Lê. Nhưng vòng quay quân cấp chỉ có 3 năm. Triều Nguyễn tỏ rõ khả năng to lớn của đám ruộng công làng xã này trong việc thu thuế, điều động lực dịch, binh lính và sự ổn định xã hội qua sự bất biến của khẩu phần mà người dân vẫn nương tựa.
Việt Nam là một nước nông nghiệp cổ truyền. Do đó, ruộng đất là tư liệu sản xuất hết sức quan trọng. Cũng như các triều đại phong kiến trước đó, từ khi triều Nguyễn thành lập đã hết sức chú trọng tới vấn đề ruộng đất để thúc đẩy kinh tế xã hội. Đặc biệt là ruộng đất công làng xã – cơ sở cho sự tồn tại của bộ máy nhà nước phong kiến.
Bài tiểu luận này, tôi đề cập tới vấn đề “Ruộng đất công làng xã dưới triều Nguyễn trong thời gian nửa đầu thế kỷ XIX”. Để thấy được những nét cơ bản nhất mà nhà Nguyễn đã thực hiện nhằm phát triển loại hình ruộng đất này.
Nhà Nguyễn can thiệp sâu vào ruộng đất công làng xã và đưa ra nhiều biện pháp chính sách để khẳng định quyền sở hữu của nhà nước đối với loại ruộng này. Và những kết quả thu được sẽ chứng minh cho ta thấy, chính sách và biện pháp của nhà Nguyễn là tiến bộ hay tụt hậu so với sự phát triển của lịch sử.
I. Chính sách của nhà Nguyễn đối với ruộng đất công làng xã
Ruộng công làng xã xuất hiện từ rất lâu đời. Có ý kiến cho rằng thời Lý và Trần, ruộng công làng xã là loại “quan điền bản xã”. Vào thời nhà Lê, nó mang tên là xã dân công điền. Ở triều đại các ông vua đều có chính sách quản lý chặt chẽ đối với loại ruộng đất công làng xã để tỏ rõ quyền sở hữu của nhà nước đối với loại ruộng này. Sang thế kỷ XIX, Nhà Nguyễn với quyền lực tuyệt đối trong tay đã ngày càng can thiệp sâu hơn nữa đối với loại ruộng này. Nhà Nguyễn đã chính thức tuyên bố quyền sở hữu nó là thuộc về nhà nước. Để tỏ rõ quyền sở hữu của mình, các đời vua nhà Nguyễn đã thi hành hàng loạt các chính sách khác nhau để duy trì, bảo vệ, mở rộng ruộng đất công làng xã.
Năm 1803, Triều đình nhà Nguyễn nhắc lại việc cấm các làng xã không được bán đứt hay cầm cố ruộng công “Theo lệ cụ thì công thổ quân cấp cho dân đem bán là có tội”. Như vậy, từ những triều đại trước đã thực hiện quyền sở hữu của mình đối với ruộng đất công làng xã. Và đến khi Gia Long lên ngôi sau một năm cũng thực hiện chính sách này. Nhà Nguyễn đã chính thức công bố và nhắc đi nhắc lại quyết định cấm bán ruộng đất công làng xã. Ngay năm 1803 sắc chỉ ghi: “Phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền. Nếu nhân có việc mà bán cho người mướn để chi dùng trong xã thôn thì chỉ hạn trong 3 năm, quá hạn sẽ bị tội nặng. Người nào tố cáo đúng thực thì thưởng cho ruộng nhất đẳng một mẫu, cày cấy 3 năm hết hạn trả về dân”(1). Vậy là trên pháp lệnh, Nhà nước tỏ ra kiên quyết và tích cực ngăn cấm việc bán ruộng đất công làng xã. Lệ này được nhắc lại nhiều lần trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX như năm 1844, 1855…
Như vậy lệnh cấm bán ruộng đất công làng xã là biểu hiện của việc nhà nước tuyên bố quyền sở hữu của nó đối với loại ruộng đất ấy. Mặc dù vậy, ta phải nhìn rõ quan điểm rằng tính không thể nhượng bán là thuộc về bất cứ một loại tài sản nào thuộc quyền sở hữu công cộng tập thể. Bản thân làng xã cũng yêu cầu tính không thể nhượng bán đối với ruộng đất công của làng. Vì vậy lệ cấm bán ruộng đất công làng xã trước hết mang mục đích ngăn cấm việc tư hữu hoá nhiều ruộng đất thuộc sở hữu công cộng, chặn đứng sự hao hụt ruộng đất công về mặt số lượng, diện tích. Vả lại khi nhà nước ra lệnh cấm bán ruộng đất công, nhà nước phong kiến Nguyễn chưa bao giờ quy định rõ thêm ai có quyền đem bán ruộng đất ấy. Và điều đó cho ta thấy rằng, đối với ruộng công làng xã hầu như không ai, không tập thể nào có quyền đem bán cả. Trong khi đó nhà nước lại thừa nhận cho làng xã có thể đem ruộng đất công cho thuê một thời hạn nhất định 3 năm, với điều kiện việc đó là nhu cầu thực sự, thiết yếu của làng xã của tập thể.
Năm 1844, Nhà nước đã quy định: “ Từ nay, phàm ruộng đất công các xã thôn, theo đúng lệ định, không được bán đứt, bán cố. Nếu xã thôn nào có việc chung khẩn trọng phải đem cầm cố hay cho thuê lấy tiền tiêu dùng thì lý dịch xã ấy báo khắp hương mục cho đến dân chúng trong xã, nhưng không được quá 3 năm. Văn khế đem cầm cố phải nhiều người ký tên, điểm chỉ. Nếu xã lớn thì vài chục người, nếu xã nhỏ thì 5-6 người ký tên điểm chỉ liền nhau thì mới là việc công của làng”(2)
Khi các công trình công cộng xâm phạm vào ruộng đất công làng xã cũng như tư nhân, thì nhà nước có trách nhiệm đền tiền và miễn tô thuế. Đối với tất cả các công trình: “Đàn cao, đàn thấp, miếu, chùa, tích điền, nhà học, thành, ao, đồn, bảo, nhà trạm, đê điều, đường xá, các chỗ lấy đất nung ngói, trông dâu, trồng gai, ở ngoài kinh kỳ mở vào ruộng đất công hay tư được theo hạng miễn thuế, chiểu giá cấp tiền cho”(3). “ Chiểu giá” tức là chiểu theo giá tiền mua bán ruộng đất lúc bấy giờ ở địa phương đó. Nếu đền bù theo giá bán thì rõ ràng nhà nước đã bỏ tiền ra mua lại số ruộng đất đó và chính vì vậy nhà nước đã thừa nhận quyền sở hữu các ruộng đất được đền bù ấy không thuộc về nhà nước mà thuộc về các tư nhân hay làng xã. Gia Long đã thực hiện nguyên tắc quyết định đền bù như sau:
Địa phương làm các công
trình công cộng
Mức và biện pháp đền bù
Ở Quảng Trị làm doanh trại đắp đường 1809
Nhất đẳng cấp 100 quan mỗi mẫu
Nhị đẳng cấp 75 quan mỗi mẫu
Tam đẳng cấp 50 quan mỗi mẫu
Ở Quảng Bình, đắp thành
doanh-1812
Lấy quan điền trả cấp
Ở Thừa Thiên xây làng
năm 1814
Nhất đẳng:200 quan
Nhị đẳng:150 quan
Tam đẳng:100 quan
Ở doanh Quảng Đức: làm lò
nung vào đất vườn 1817
Đất vườn:10 quan mỗi xào
Nguyên tắc đền bù trên được thực hiện nghiêm chỉnh trong suốt thời Gia Long nhưng từ thời Minh Mệnh trở đi, nguyên tắc trên bị vi phạm. Năm 1827, Minh Mệnh đã quyết định: ruộng công làng xã chỉ được miễn thuế chứ không được đền bù nữa (ruộng tư vẫn theo lệ cũ). Đây là một hành động mãnh mẽ của vua Minh Mệnh. Nó là một sự tuyên bố dứt khoát quyền sở hữu của nhà nước trên số ruộng đất công làng xã, vì vậy nhà nước không phải đền bù một đồng nào cho làng xã cả. Cho nên đây là một sự tước đoạt với làng xã. Tuy nhiên, chính sách trên cũng chưa được thực hiện triệt để. Năm 1835, khi đào sông Phả Lại ở Thừa Thiên, triều đình nhà Nguyễn đã đền bù như sau:
Ruộng lúa: mỗi sào 2 quan, tức mỗi mẫu 20 quan.
Ruộng dâu: mỗi thức 20 đồng, tức mỗi mẫu 30 quan.
Ta có thể thấy đây là mức đền tiền thấp nhất, rẻ mạt nhất. Nhưng dù sao vẫn là sự đền bù, do đó phần nào đấy vẫn thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất của làng xã.
Ngoài ra nhà Nguyễn bản thân nó cũng cố giữ số lượng ruộng công khỏi bị sứt mẻ nhiều. Mọi thứ ban cấp ruộng đất trích từ ruộng công ra đều hầu như bị bãi bỏ hết. Riêng việc ban cấp tự điền là còn được duy trì, nhưng cũng bị hạn chế rất nhiều; và có khi còn được trích cả ruộng tư nữa. Năm 1802, Gia Long lấy một vạn mẫu ruộng cả công lẫn tư ban làm tự điền cho con cháu vua Lê. Hoặc năm 1815 triều Nguyễn sai lư thủ Quảng Nam chi tiền kho 3 vạn quan và 3000 lạng bạc để mua ruộng của dân dùng vào việc tế tự ông tổ ba đời của Tống quốc công phu nhân Lê Thị. Đó là biện pháp tránh làm hao hụt số lượng ruộng đất làng xã trong trường hợp phải ban cấp nhiều.
Bên cạnh những biện pháp trên, nhà nước còn tích cực tạo điều kiện để phát triển số lượng công điền công thổ. Triều Nguyễn khôi phục lại những ruộng đất công bị chiếm đoạt từ trước, đồng thời dùng quyền lực cắt xén bất cứ loại ruộng đất nào thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào để nhập vào ruộng đất công làng xã. Từ khi Gia Long lên ngôi cho đến đầu thời kỳ Tự Đức, nhà nước đã ban hành 24 quyết định mở rộng quỹ công điền( Gia Long 2, Minh Mênh 18, Thiệu Trị 2, Tự Đức 2), lấy từ ruộng đất do nhà nước quản lý trực tiếp (58% số quy định), từ kết quả khai hoang ( 29 % số quy định), và từ ruộng đất của tư nhân ( 13% số quy định). Hai hình thức đầu không có gì đặc biệt vì nó đều thuộc quyền sở hữu trong tay nhà nước, hình thức 3 được thực hiện bằng áp chế từ trên xuống mà hiện tượng điển hình là việc thực hiện thi hành phép quân điền ở Bình Định vào những năm của thời Minh Mệnh.
Trong công cuộc khai hoang mà đối tượng là những đất công của nhà nước, chính quyền nhà Nguyễn cho phát triển song song hai loại hình sở hữu ruộng đất, sở hữu tư nhân và sở hữu làng xã. Năm 1828, thời kỳ mà công việc khai hoang đang tiến hành mạnh mẽ nhất, Minh Mệnh đã ra một đạo dụ quyết định rằng những ruộng đất công mới khai hoá thành ruộng thì một nửa thuộc khai phá, còn một nửa nạp vào công điền. Đây là một biện pháp khá mạnh mẽ của Minh Mệnh để phát triển diện tích công điền công thổ. Đồng thời với công cuộc khai hoang của dân, nhà Nguyễn còn trực tiếp cho tù binh đi vỡ đất rồi trích toàn bộ hay một phần ruộng khẩn được giao cho làng xã sở tại để mở rộng diện tích công điền. Ví dụ: Quảng Định năm 1818 cấp toàn bộ ruộng đất do tù phạm khẩn được ở Tam Độc cho xã sở tại làm công điền. Dụ năm 1840, Nhà Nước đã nói rõ : “Nay cứ quan tỉnh Biên Hoà tâu bày trước đã phái vát biền binh khai phá ruộng ở Xích Lam thuộc hạt ấy, hiến số đến 300 mẫu, nên phải chia nợ cho dân… Vậy cứ số nguyên trước phát cho tù phạm… còn bao nhiêu chiểu theo các xã thôn cận tiện, sức cho nhận lĩnh cày cấy nộp thuế, xung làm ruộng công, chia cấp cho quân dân. Lại như các tỉnh Khánh Hoà trở vào Nam, tỉnh nào có ruộng mới khai khẩn như thế thì cũng cho chiểu theo đây mà làm.”(4).
Đối với các ruộng của nhà nước như quan điền quan trại và đồn điền chính quyền phong kiến cũng đem một phần xung vào làm ruộng công làng xã. Năm 1820, vua Nguyễn ra lệnh đem tất cả những quan trại bị bỏ hoang cấp trả cho địa phương, nhập vào công điền, chia cho dân và chịu thuế như ruộng công làng xã. Quan điền quan trại đang canh tác cũng có thể bị chuyển sang làm ruộng công làng xã.
Quyết định trên chứng tỏ sự mạnh dạn và quyết tâm khá cao của chính quyền nhà Nguyễn nhằm đi tới mở rộng diện tích ở các làng xã. Quyết tâm này đã lên tới đỉnh tối cao của nó kể từ năm 1837, khi nhà Nguyễn thực hiện 2 biện pháp có ý nghĩa lớn lao trong vấn đề ruộng đất như sau:
1. Áp đặt chế độ công điền công thổ vào Nam kỳ.
2. Tịch thu ruộng tư để khôi phục công điền ở Bình Định.
Trước kia trên đất Nam kỳ đã tồn tại loại ruộng đất của làng xã. Nhưng do đến cuối thời Minh Mệnh, loại ruộng này bị thu hẹp lại rất nhiều do chính sách phát triển của ruộng tư nhân. Sang đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn vẫn tiếp tục phát triển chính sách trên trong những năm khai phá ào ạt bằng việc mộ dân vào làm ăn ở miền đất này. Bởi vậy, loại ruộng công làng xã dù có tồn tại cũng không thể phát triển mà còn bị tàn lụi đi trước sở hữu tư nhân, vì sở hữu tư nhân kích thích hứng thú sản xuất hơn.
Vì thế mà chế độ công điền công thổ đã được áp đặt và mở rộng vào Miền Nam, nơi có khá nhiều ruộng đất phì nhiêu. Tuy nhiên, số lượng công điền ở đây không nhiều vì thế muốn phát triển diện tích công điền, không có cách nào khác hơn là xâm phạm vào ruộng đất tư hữu. Triều Nguyễn đã đi tới một quyết định quyết liệt là tịch thu một phần ruộng đất tư hữu bổ sung vào ruộng công làng xã đã có. Năm 1840 bố chính Gia Định Lê Khánh Chinh tâu xin trích 50% ruộng tư xung làm ruộng quân điền quân cấp. Minh Mệnh cân nhắc rồi xuống dụ: “ các tỉnh Nam kỳ có đất tốt và nhiều ruộng. Chỉ lo dân không chăm cày ruộng chứ không lo dân không chẳng đủ ruộng cày. Nếu khéo điều hoà để ruộng người giàu đem ruộng dư cho thêm người nghèo không đủ ruộng cày, bằng cách khuyên bảo khiến dân đều được hưởng lợi, há lại không tránh khỏi sự tranh giành? Chứ chia cắt lấy một nửa ruộng tư không khỏi gặp phải một phen sửa đổi sổ sách, gây nhiều phiền nhiễu. Nay thuận cho xem xét, xã thôn nào có nhiều ruộng đất hoang, khiến dân hợp lực khai khẩn làm ruộng công, rồi đem cấp cho lính và dân. Hoặc làng nào có nhiều ruộng đất tư không canh tác hết, thì quan phải thân hành kiến thị khiến người có ruộng trích ra một nửa, hoặc ba, bốn phần mười giao cho làng xung công điền, để dân cùng hưởng lợi chung” Tuy nhiên kết quả cho thấy lại chưa đạt được hiệu quả. Số người tự nguyện đem ruộng tư nhượng làm ruộng công chỉ có 6-7 trăm mẫu so với số ruộng 6-7 ngàn mẫu.
Ở tỉnh Bình Định đến cuối thời Minh Mệnh là nơi có tỷ lệ ruộng công thấp( bằng khoảng 10% ruộng tư). Năm 1838, lưỡng thổ tổng đốc Bình- Phú Vũ Xuân Cẩn đã tâu lên vua về tình hình ruộng công tư ở đây và cho biết: “ Các ruộng tư đều bị bọn hào phú chiếm cả người nghèo không nhờ cậy gì”. Ông đề nghị người nào có ruộng tư chỉ được để lại 5 mẫu, còn bao nhiêu đều xung vào ruộng công.(5).
Việc làm trên, một mặt là thí điểm của nhà Nguyễn dùng sức ép hành chính để mở rộng công điền công thổ, mặt khác cũng thể hiện tham vọng áp đặt chế độ công điền công thổ ở một vùng đất hầu như chỉ có ruộng tư (Nam bộ). Những chính sách này bộc lộ rõ quan điểm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở nửa đầu thế kỷ XIX.
Đồng thời với các biện pháp trên, nhà nước đã ban hành chính sách “quân điền” 1804, tức là chỉ sau 2 năm Gia Long lên ngôi. Mục đích của chính sách này là nhằm duy trì và bảo vệ ruộng đất công làng xã, lấy đó làm cơ sở để giải quyết những vấn đề kinh tê xã hội và ổn định tình hình đất nước. Chính sách quân điền quyết định rất tỷ mỉ và chi tiết những đối tượng được nhận ruộng, khẩu phần ruộng đất của từng đối tượng và thời gian chia lại ruộng. Quan lại vẫn là đối tượng được nhà nước ưu tiên ban cấp ruộng đất cho họ nhiều hơn cả, khẩu phần của họ tuỳ theo chức bậc được chia từ 8-18 mẫu. Tiếp sau là binh lính được chia từ 7-9 mẫu. Năm 1806 nhà nước ban hành thêm chính sách “Lương điền” ưu tiên chia thêm cho binh lính. Dân đinh được chia 6, 5 phần. Ngoài ra nhà Nguyễn còn có phần quan tâm đến những đối tượng chính sách xã hội (dân đinh già ốm 5 phần, lão nhiêu cố cùng, trẻ em mồ côi, tàn phế, đàn bà góa 3 phần). Đến năm 1840, Minh Mệnh lại rút nhiều khẩu phần của quan lại, binh lính xuống bằng khẩu phần của dân đinh, lão nhiêu, lão hạng được một nửa, trẻ em mồ côi, đàn bà góa được một phần ba.
Về thời hạn chia ruộng công, các triều đại trước quy định là 6 năm, còn thời nhà Nguyễn đã sửa lại 3 năm chia lại ruộng một lần. Sở dĩ như vậy vì trong một thời gian ngắn quyền sở hữu công cộng của làng xã và nhà nước đối với ruộng công được đảm bảo hơn, sẽ tránh khỏi tình trạng “biến công vi tư” do thời gian dài tạo nên những thuận lợi cho các chủ chiếm hữu. Bên cạnh đó, chia cấp trong một thời gian ngắn còn có thể nắm vững năng suất ruộng đất và do đó kiểm tra được chắc chắn việc thu nộp tô thuế. Việc làm này đã gây tác động đến độ phì của đất vì khoảng cách trong hai lần chia ruộng ngắn ngủi khiến cho người canh tác thửa ruộng không chú ý chăm sóc đất đai mà chỉ biết khai thác triệt để từ đất đai, làm cho đất đai ngày càng cằn cỗi.
Nhìn chung những chính sách của nhà Nguyễn không có tác dụng nhiều lắm đối với ruộng đất công làng xã. Tuy nhiên, những việc làm của nhà Nguyễn chỉ là cố gắng phục hồi lại chế độ sở hữu công cộng, một hình thái sở hữu đến lúc này đã trở nên lỗi thời và cản trở quá trình tiến hoá của lịch sử.
II. Tô thuế ruộng đất công làng xã
Tô thuế chính là nguồn lợi để nuôi sống bộ máy chính quyền phong kiến. Chính quyền phong kiến cũng dựa vào tô thuế để tăng thêm sức mạnh quyền lực trong tay đối với sở hữu ruộng đất. Bởi có quyền chiếm hữu ruộng đất thì cũng đồng thời có quyền chiếm hữu địa tô, và mặt khác chiếm hữu địa tô chính là hình thức biểu hiện quyền sở hữu ruộng đất. Người dân không những phải chịu nhiêù khoản thuế khác nhau mà còn phải chịu thuế ruộng khá nặng nề. Thuế ruộng đất dưới thời Nguyễn trong thời gian này không ổn định, khá phức tạp và thay đổi theo địa phương và dưới mỗi triều vua.
Ngay năm 1803, thuế ruộng đất công làng xã đã được quyết định . Gia Long chia cả nước thành 4 khu vực đánh thuế. Mỗi khu vực chịu một mức thuế khác nhau:
- Khu vực I bao gồm: Các phủ Quảng Bình, Triều Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hoà, Diên Khánh.
- Khu vực II bao gồm: Nghệ An, Thanh Hoá, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam thượng, hạ và Phủ Phụng Thiên.
- Khu vực III bao gồm 6 trấn: Yên Quảng, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng.
- Khu vực IV bao gồm: Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên, Kiên Giang.
Cụ thể như sau:
Biểu số 1
TÔ THUẾ RUỘNG CÔNG
Khu vực
Đẳng hạng
Tô thuế trên
Đơn vị mẫu
Các thứ tiền khác
(đơn vị mẫu)
I
Ruộng hạng nhất
Ruộng hạng nhì
Ruộng hạng ba
Ruộng mùa(thu)
40 tháng thóc
30 tháng thóc
20 tháng thóc
10 tháng thóc
Tiền thẻ tre, khoán khố điền mẫu và cung đốn đều mỗi mẫu 3 tiền
II
Bố chính
ngoại châu
Ruộng hạng nhất
Ruộng hạng nhì
Ruộng hạng ba
Ruộng các hạng
(Ruộng mùa)
120 bát đồng
84 bát đồng
50 bát đồng
15 thúng
Tiền thập vật: 1 tiền
Tiền mao nha:30 đồng
III
Ruộng hạng nhất
Ruộng hạng nhì
Ruộng hạng ba
60 bát
42 bát
25 bát
Tiền thập vật: 1 tiền
Tiền mao nha:10 đồng
Tiền khoán khố:15 đồng
IV
(Theo lệ 1801 có biểu riêng)
Tiền khoán khố: tiền để làm kho.
Tiền điền mẫu: thuế phụ đánh vào từng mẫu.
Tiền thường tân: tiền thuế về lễ cơm mới.
Tiền cung đốn: tiền chi phí cho quan lại.
Tiền mao nha: tiền tranh tre làm nhà
Tiền thập vật: tiền lặt vặt.
Như vậy, chính sách thuế trên cùng với những chính sách quyết định thuế riêng cho từng khu vực từng loại đất thì Gia Long đã đặt rõ những nét cơ bản cho chế độ tô thuế triều Nguyễn, đồng thời nó cũng phản ánh được quan điểm và thái độ chủ quan của nhà Nguyễn đối với tô thuế ruộng đất công làng xã. Từ những năm đầu thống trị, nhà Nguyễn đã quyết định tô thuế ruộng đất công làng xã một cách hệ thống và toàn diện hơn cả vì nhà Nguyễn hi vọng và trông đợi nhiều ở loại ruộng đất công làng xã này, muốn biến nó trở thành cơ sở kinh tế chủ yếu của chế độ phong kiến tập quyền.
Ta có thể nhận thấy được, tô thuế ruộng đất công ở mỗi khu vực đều ở mức rất cao. Đây đúng là một chính sách vơ vét bóc lột của triều đình nhà Nguyễn. Công điền công thổ đã trở thành đồi tượng bóc lột chủ yếu trong chính sách tô thuế ruộng đất của triều nhà Nguyễn. Thái độ vơ vét này còn thực hiện ở việc đánh thuế nhiều ruộng đất công vắng chủ chiếm hữu. Nghĩa là không một mảnh ruộng nào cho thu hoách thoát khỏ lệ cống nạp.
Ngay năm 1802, khi Gia Long mới lên ngôi, đã “ cho các phủ huyện Bắc Thành đi khám đất của dân lưu tán. Nếu dân làng bên cạnh cấy chiếm thì cho dân khai nhận và phải nộp thuế theo đẳng hạng ruộng công, tư, thu tiền thuế trước:
Ruộng công : Nhất đẳng: mỗi mẫu nộp 4 quan
Nhị đẳng: mỗi mẫu nộp 2 quan 5 tiền
Tam đẳng: mỗi mẫu nộp 1 quan 5 tiền
Nếu có người ẩn tránh đi thì cho quan quân thu gặt mà nộp thuế. Đợi khi dân lưu tán về thì trả lại” (6)
Ta thấy rõ đây là một thái độ bóc lột trắng trợn và tham lam bộc lộ rõ ràng trong cái quyết định mở đầu về tô thuế của nhà Nguyễn. Tính chất vơ vét còn cộng thêm với tính